Ở vùng sốt rét lưu hành nặng, đặc biệt những nơi có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống bị mắc bệnh sốt rét dai dẳng, thiếu hụt men G6PD hay người bị sốt rét sơ nhiễm khi mới vào vùng sốt rét thường dễ có nguy cơ dẫn đến sốt rét tiểu huyết cầu tố gây hậu quả tử vong. Vì vậy cần có biện pháp chủ động ngăn ngừa sốt rét tiểu huyết cầu tố.
Biện pháp ngăn ngừa sốt rét tiểu huyết cầu tố
Để ngăn ngừa sốt rét tiểu huyết cầu tố, cần tăng cường thực hiện các biện phòng chống sốt rét thật tốt, điều trị bệnh nhân sốt rét có chất lượng, hiệu quả và quản lý tốt người bệnh sốt rét.
- Các biện pháp phòng chống sốt rét tại các cơ sở được triển khai thực hiện hàng năm phải bảo đảm yêu cầu của độ bao phủ và chất lượng biện pháp, đặc biệt ở vùng sốt rét lưu hành nặng, trong thời gian dịch bệnh sốt rét đang phát triển; đặc biệt chú ý đến những đối tượng quần thể hay cá thể có nguy cơ cao như từ vùng không có sốt rét mới vào vùng sốt rét lưu hành, lao động với cường độ cao, dưới thời tiết mưa lạnh; đối tượng thanh niên có cơ thể yếu, mắc bệnh mãn tính về gan, thận; trong tiền sử đã mắc sốt rét tiểu huyết cầu tố... Đối với những người đã có lần bị mắc sốt rét tiểu huyết cầu tố, tốt nhất là nên tránh đi vào vùng sốt rét lưu hành nặng hoặc không sinh sống, lao động trong vùng sốt rét.
- Khi bị mắc bệnh sốt rét, phải điều trị người bệnh tích cực, có chất lượng và đáp ứng hiệu quả; đặc biệt ở các bệnh nhân bị sốt rét sơ nhiễm trong giai đoạn 6 tháng đầu và người bệnh có sốt rét dai dẳng. Phải dùng các loại thuốc sốt rét chống kháng có hiệu lực cao, sử dụng thuốc đúng theo phác đồ điều trị quy định; không dùng thuốc thất thường, không đủ liều; thận trọng khi sử dụng những loại thuốc sốt rét oxy hóa mạnh dễ gây tai biến huyết tán đối với người thiếu hụt men G6PD (Glucose 6 Phosphate Dehydrogenase) như sulfon, sulfonamide, quinine, primaquine... Chú ý không nên lạm dụng thuốc quinine, chỉ sử dụng khi thật cần thiết. Đối với những trường hợp bệnh nhân sốt rét dai dẳng, sốt rét bị suy kiệt nặng nhất thiết phải được điều trị ở bệnh xá, bệnh viện; không nên để ở trạm y tế.
- Phải quản lý chặt chẽ bệnh nhân sốt rét thật tốt, không nên để người bệnh đang mắc bệnh sốt rét hoặc vừa mới điều trị cắt xong cơn sốt phải tham gia lao động nặng, mang vác, đi bộ đường dài... Cần truyền thông giáo dục sức khỏe, phổ biến rộng rãi cho cộng đồng người dân, đặc biệt là các đối tượng nguy cơ mắc sốt rét biết triệu chứng phát hiện sớm bệnh sốt rét, sốt rét tiểu huyết cầu tố và biết cách tự điều trị bằng các loại thuốc sốt rét đúng quy định khi bị mắc bệnh để phòng ngừa hậu quả xấu có thể xảy ra.
Tiên lượng diễn biến của bệnh
Sốt rét tiểu huyết cầu tố là một thể bệnh nặng nhưng trên thực tế cũng có một số trường hợp bệnh nhẹ tự đến bệnh viện. Thông thường loại sốt rét tiểu huyết cầu tố “tự phát” phát sinh, phát triển từ căn bệnh sốt rét có diễn biến lâm sàng nặng hơn so với loại sốt rét tiểu huyết cầu tố do nguyên nhân sử dụng thuốc sốt rét để điều trị. Sốt rét tiểu huyết cầu tố “tự phát” khi bị mắc bệnh sốt rét thường có những đặc điểm như xảy ra nhiều cơn sốt và nhiều cơn huyết tán tái diễn, hồng cầu bị tụt nhanh, da và niêm mạc màu vàng đậm, hay có biến chứng suy thận cấp.
Để có tiên lượng từ sớm, cần đánh giá ngay trong giai đoạn đầu sự đáp ứng thích nghi của bệnh nhân trước tình trạng thiếu máu, thiếu oxygen cấp diễn có thể xảy ra dễ dàng hay khó khăn căn cứ vào biểu hiện trạng thái thần kinh, mạch, huyết áp, nhịp thở...
Tình trạng bệnh nhân vật vã, xao xuyến, mạch nhanh nhỏ, nhịp thở gấp, huyết áp dao động không ổn định là những biểu hiện nặng của một cơ thể đang cố gắng thích nghi trước tình hiện tượng thiếu máu dữ dội và thiếu oxygen cấp diễn. Ngược lại, nếu bệnh nhân có mạch, huyết áp, nhịp thở ổn định và trạng thái bình tĩnh của người bệnh phản ánh biểu hiện đáp ứng thích nghi không khó khăn và tiên lượng được thuận lợi hơn.
Số lượng hồng cầu của bệnh nhân khoảng 1 triệu hay từ 2-3 triệu cũng có ý nghĩa về mặt tiên lượng nhưng khoảng cách tụt hồng cầu nhanh hay chậm so với trước khi bệnh khởi phát có giá trị tiên lượng quan trọng hơn.
Cơn sốt rét và cơn huyết tán xảy ra hàng ngày là một dấu hiệu nặng vì thông thường chỉ có từ 1 đến 2 cơn huyết tán là chấm dứt, nhất là ở những trường hợp do nguyên nhân thuốc sốt rét. Ngược lại, ở các trường hợp sốt rét tiểu huyết cầu tố “tự phát” do ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc thì cơn sốt rét sẽ tái diễn hàng ngày cùng với cơn huyết tán. Để xác định vấn đề này, cần theo dõi chặt chẽ người bệnh, nếu bệnh nhân còn sốt cao, có cơn rét run, màu sắc nước tiểu buổi sáng nhạt nhưng buổi chiều đậm; hồng cầu tụt dần là biểu hiện quá trình huyết tán chưa chấm dứt.
Bệnh nhân bị nôn nhiều lần, vã nhiều mồ hôi là dấu hiệu báo động có nguy cơ nặng do tình trạng rối loạn nước và điện giải.
Nếu lượng nước tiểu < 20 ml/giờ và urê, creatinin máu tăng dần, urê niệu và Na+ niệu thấp dưới mức bình thường; K+ máu tăng, CO3H- máu thấp là những dấu hiệu xác định bệnh nhân đã chuyển vào suy thận thực thể, tiên lượng nặng và cho đến khi có biểu hiện trình trạng vô niệu thì tiên lượng đã quá rõ rệt; bệnh cảnh lâm sàng đã quá nặng và không còn giá trị liên lượng sớm nữa.
Tử vong do sốt rét tiểu huyết cầu tố
Tỷ lệ tử vong trung bình do sốt rét tiểu huyết cầu tố chiếm khoảng 17,5%. Một số nhà khoa học tại Việt Nam đã nghiên cứu và ghi nhận tỷ lệ này chiếm từ 10,9% đến 21,3%. Nguyên nhân trực tiếp gây tử vong cho các bệnh nhân bị sốt rét tiểu huyết cầu tố thường gặp là:
- Hội chứng suy thận cấp dẫn đến urê máu cao, K+ cao và bệnh nhân ngừng tim.
- Triệu chứng hôn mê, co giật do thiếu oxygen ở não hoặc do urê máu cao, bị suy hô hấp.
- Bị trụy tim mạch, tụt huyết áp do suy cơ tim vì thiếu oxygen hoặc tăng K+ máu.
Suy thận cấp là nguyên nhân gây tử vong do sốt rét tiểu huyết cầu tố phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ khoảng 57,14%. Còn lại do các nguyên nhân khác, trong đó phần lớn các trường hợp tử vong do trụy tim mạch, tụt huyết áp với tỷ lệ khoảng 40%.
Việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời các trường hợp sốt rét ác tính sẽ giảm được biến chứng suy thận cấp để hạn chế tử vong.
Khuyến cáo việc phát hiện sớm sốt rét tiểu huyết cầu tố
Để phát hiện sớm sốt rét tiểu huyết cầu tố, cần căn cứ vào những triệu chứng nghi ngờ như: Người bệnh sốt rét mấy ngày đầu đang sốt vừa nhưng bỗng nhiên sốt vọt lên cao, những cơn rét trước kia chỉ xảy ra ở mức độ vừa phải nhưng đột nhiên có cơn rét run dữ dội. Bệnh nhân nôn nhiều, nôn ra “mật xanh, mật vàng”. Đau nhiều ngang lưng, đau dọc cột sống lưng và hai bên hạ sườn. Da, niêm mạc xanh tái nhợt rất nhanh, xuất hiện ánh vàng ở mắt. Có tình trạng bứt rứt, vật vã, trăn trở trên giường, buồn bực chân tay, choáng váng, chóng mặt, xao xuyến, hốt hoảng khác hơn mọi ngày. Trong một số trường hợp đi tiểu tiện thấy có cảm giác nóng buốt niệu đạo.
Khi đối diện với những triệu chứng có yếu tố nghi ngờ ở trên, các cơ sở y tế, kể cả bệnh nhân, thân nhân người bệnh cần quan sát ngay tính chất nước tiểu, đồng thời kiểm tra huyết cầu tố niệu; nếu cần phải thông tiểu bệnh nhân để lấy nước tiểu đem đi xét nghiệm ngay. Cần quan niệm rằng sốt rét tiểu huyết cầu tố có trình trạng nguy kịch với những biến chứng trầm trọng của sốt rét ác tính để quan tâm phát hiện sớm, điều trị kịp thời nhằm chủ động khống chế tử vong có thể xảy ra.