Hiện nay Việt Nam cũng như nhiều quốc gia thuộc vùng sốt rét lưu hành khác đã chuyển sang sử dụng phác đồ phối hợp có gốc Artemisinine (Artemisinie-based Combination Therapy) điều trị sốt rét do P.falciparum nhằm hạn chế sự phát triển kháng thuốc của ký sinh trùng, tuynhiên vai trò điều trị đơn thuần của Artemisinine và dẫn xuất Artesunat đơn trị liệu vẫn còn giá trị với sốt rét do P.falciparum khi kéo dài ngày điều trị.
Sốt rét vẫn là mối đe dọa lớn và là vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, trong đó có Việt Nam. Ước tính hàng năm có khoảng 350-500 triệu ca mắc mới với hơn một triệu ca tử vong do sốt rét trên toàn cẩu, tập trung phần lớn ở trẻ em và phụ nữ mang thai. Thành quả của chương trình phòng chống sốt rét đạt được không thể không kể đến hiệu quả thuốc sốt rét và đánh giá đáp ứng của ký sinh trùng sốt rét P.falciparum với một số thuốc sốt rét hiện đang sử dụng và thử nghiệm thuốc sốt rét mới là một yêu cầu cần thiết và cần hoạt động thường quy, nhất là tại các vùng sốt rét lan truyền cao, đặc biệt phải theo dõi đáp ứng chủng P.falciparum với thuốc sốt rét tại một số điểm thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng có tình hình đa kháng. Khu vực miền Trung-Tây Nguyên với nhiều vùng sốt rét lưu hành nặng và rất nặng, kháng thuốc cao, nên việc giám sát và đánh giá hiệu lực lại càng quan trọng hơn.
Tình trạng ký sinh trùng sốt rét P.falciparum kháng thuốc lan tràn nghiêm trọng trên thế giới và khu vực Đông Nam Á là một khó khăn lớn cho việc lựa chọn các thuốc điều trị sốt rét. Ở Việt Nam P.falciparum kháng cao với nhiều loại thuốc sốt rét cổ điển (Chloroquine, Fansidar, Mefloquine, Quinine) đến giảm nhạy với nhiều loại thuốc chống sốt rét mới hiện dùng, việc tìm ra một loại thuốc có hiệu lực điều trị tốt và khắc phục đa kháng đối với sốt rét P.falciparum là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách. Từ năm 1990, thuốc chống sốt rét artemisinine và dẫn chất Artesunate được thử nghiệm lâm sàng và chính thức đưa vào sử dụng rộng rãi trong Chương trình quốc gia PCSR ở nước ta, đóng vai trò quan trọng, giúp hạ thấp tỷ lệ bệnh và tỷ lệ tử vong đáng kể. Mặc dù với liệu trình thường quy đang sử dụng, tỷ lệ khỏi bệnh với P.falciparum có thể > 90%, nhưng nhược điểm lớn nhất của Artesunate đơn trị liệu tái phát sớm sau điều trị quá cao (35-42%) qua nhiều nghiên cứu cũng như các dữ liệu giảm nhạy trên in vitro trong thời gian gần đây cho thấy đối với IC50, IC90 và IC99 cần phải tăng liều gấp 2-3 lần mới có thể ức chế được ký sinh trùng. Do đó, nhằm đánh giá các hiệu lực phác đồ và nhận định thực chất diễn biến nhạy-kháng thuốc của chủng P.falciparum với Artesunate như thế nào, cũng như đề xuất phác đồ điều trị sốt rét phù hợp với tình hình thực tế, làm cơ sở cho việc xây dựng Chính sách thuốc sốt rét ở nước ta. Trên cơ sở đó, đề tài trên được tiến hành, nhằm mục tiêu so sánh hiệu lực phác đồ Artesunate 5 ngày và 7 ngày điều trị bệnh nhân sốt rét do Plasmodium falciparum chưa biến chứng.
 |
Dạng thuốc Artesunate (ảnh sưu tầm có tính minh họa) |
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ năm 2005-2007 tại xã Đăk Roong, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai trên bệnh nhân sốt rét P.falcipparum chưa biến chứng
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân tổi từ 5-60 tuổi nhiễm đơn thuần loại KSTSR Plasmodiumfalciparum, mật độ thể vô tínhcủa P.falciparum trong máu ≥ 1.000/µl máu, nhiệt độ nách ≥ 37.5 °C hoặc nhiệt độ dưới lưỡi/ đại tràng ≥ 38 °C, chưa dùng thuốc sốt rét hoặc thuốc có thành phần chống sốt rét, bệnh nhân và gia đình đồng ý hợp tác nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Loại trừ hoặc không lựa chọn điều trị bệnh nhân nhỏ hơn 5 tuổi và lớn hơn 60 tuổi, phụ nữ có thai, nôn mửa trầm trọng hoặc thể trạng không hấp thu được thuốc, sốt rét có biến chứng hoặc mắc các bệnh nhiễm trùng phối hợp, nhiễm sốt rét phối hợp P.falciparum + P.vivax hoặc P.malariae;
Thuốc và liều lượng sử dụng trong nghiên cứu
Thuốc sốt rét Artesunate, viên nén 50mg, liều dùng 5 & 7 ngày được quy định như sau:
Liệu trình 5 ngày: ngày thứ nhất (Do): 4 mg/ kg /24 giờ; ngày thứ 2-5 (D1-D4):2 mg / kg/ 24 giờ.
Liệu trình 7 ngày: ngày thứ nhất (Do): 4 mg/ kg /24 giờ; ngày thứ 2-7 (D1-D6):2 mg / kg/ 24 giờ.
Phương pháp nghiên cứu:
-Thiết kế nghiên cứu theo thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tự chứng. Thử nghiệm in vivo 28 ngày (WHO, 2007)
-Đánh giá hiệu lực điều trị theo tiêu chuẩn phân loại của WHO.,2007:
Phân loại đánh giá hiệu lực điều trị theo tiêu chuẩn WHO (Classification of treatment outcomes WHO, 2007) | |
Thất bại điều trị sớm (ETF_Early Treatment Failure) | |
-Xuất hiện các dấu chứng của sốt rét nguy hiểm hoặc nghiêm trọng vào ngày D1, D2hoặcD3, kèm có mặt KSTSR trong máu; -KSTSR vào ngày D2 cao hơn D0 bất kể thân nhiệt; -Xuất hiện KSTSR trong máu vào ngày D3 đi kèm thân nhiệt ≥ 37.5ºC; -KSTSR trong máu vào ngày D3 ≥ 25% so với MĐKSTSR ngày D0. | |
Thất bại điều trị muộn (LTF_Late Treatment Failure), gồm có: | |
Thất bại lâm sàng muộn (LCF_Late Clinical Failure) -Xuất hiện các dấu chứng sốt rét nặng và nguy hiểm vào bất kỳ ngày nào từ D4 đến D28 với sự có mặt của KSTSR trong máu, không có tiêu chuẩn nào của ETF trước đó; -Có mặt KSTSR trong máu và thân nhiệt ≥ 37.5ºC hoặc có tiền sử sốt trong vùng sốt rét lan truyền thấp đến trung bình ở bất kỳ ngày nào từ D4 đến D28, không có bất kỳ dấu hiệu nào của ETF trước đó; Thất bại ký sinh trùng muộn (LPF_Late Parasitological Failure) -Có mặt KSTSR trong máu vào bất kỳ ngày nào từ D7 đến D28 và thân nhiệt < 37.5ºC, không có bất kỳ tiêu chuẩn nào của ETF và LCF trước đó. | |
|
Đáp ứng lâm sàng, KST đầy đủ (ACPR_Adequate Clinical and Parasitological Response) | |
-Không có xuất hiện KSTSR trong máu vào D28, bất luận nhiệt độ nách thế nào và không có bất kỳ tiêu chuẩn nào của ETF, LCF và LPF trước đó. | |
Phân tích và xử lý số liệu:
Kết quả nghiên cứu thu thập được tổng hợp, phân tích và xử lý theo bảng In vivo Exelsheet của WHO,2007 và EPI INFO 6.04 của Mỹ
Các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu
Đề cương đã được thông qua Hội đồng y đức Bộ Y tế. Mọi thời điểm, tính an toàn và sự bồi hoàn phải luôn đảm bảo cho bệnh nhân tối đa. Thông tin liên quan bệnh nhân được bảo mật.
Kết quả nghiên cứu
Hiệu lực các phác đồ đơn trị liệu Artesunate với P.falciparum
Đặcđiểm bệnh nhân trước khi nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm 2 nhóm bệnh nhân trước nghiên cứu điều trị
THÔNG SỐ | GÍA TRỊ | Giá trị p |
| |
| | | p > 0.05 |
Giới tính | Nam | 24 | 27 |
Nữ | 18 | 15 |
Tuổi TB | Nam | 22.40 ± 15.80 | 22.20 ± 12.50 |
Nữ | 17.10 ± 12.20 | 19.10 ± 13.30 |
Số ngày sốt TB trước điều trị | 2.80 ± 1.30 | 2.30 ± 1.20 |
Thể trọng TB trước điều trị | 34.40 ± 12.90 | 35.80 ± 13.50 |
Thân nhiệt TB trước điều trị | 38.90 ± 1.10 | 38.50 ± 0.90 |
MĐKSTSR trung bình Do | 23.159 ± 18.023 | 18.765 ± 10.735 |
Nhận xét:Với số ca nghiên cứu mỗi nhóm là 42, các chỉ số về đặc điểm của bệnh nhân trước khi điều trị không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0.05).
Hiệu lực phác đồ đơn trị liệu Artesunat 5 và 7 ngày với P.falciparum
Bảng 2: Đáp ứng của P.falciparum với Artesunate trị liệu 5 và 7 ngày
CHỈ SỐ | | | Giá trị p |
| n = 42 | n = 42 |
| | 26.80 ± 8.60 | > 0.05 |
Thời gian cắt sốt trung bình (giờ) | | 26.40 ± 12.60 |
HIỆU QUẢ | Tỷ lệ ACPR | | | 40 | 95.24% | < 0.05 |
Tỷ lệ thất bại điều trị (TF)/tái phát sớm (recrudescence) | 5 | 11.90% | 2 | 4.76% | < 0.01 |
Tỷ lệ LPF | 5 | 11.90% | 2 | 4.76% | > 0.05 |
Tỷ lệ LCF, ETF | 0 | 0 | 0 | 0 |
Nhận xét:So sánh ở 2 nhóm điều trị Artesunate đều có thời gian cắt sốt và cắt ký sinh trùng không có khác biệt (p > 0.05), tỷ lệ ACPR từ 88,10% (phác đồ 5 ngày) đến 95,24% (7 ngày). Tỷ lệ thất bại KSTSR muộn (LPF) từ 4,76% (7 ngày) và 11,90% (5 ngày).
Diễn tiến cắt ký sinh trùng và cắt sốt của các phác đồ đơn trị liệu Artesunate:
Bảng 3: Chi tiết về giảm và sạch KSTSR của2 phác đồ Artesunate sau mỗi 12 giờ
CHỈ SỐ | Phác đồ 5 ngày | Phác đồ 7 ngày |
| | | |
| 18.023 (100%) | 10.765 (100%) |
MĐKST còn lại | sau 12 giờ | 5296 | 70.65% | 1961 | 81.78% |
sau 24 giờ | 240 | 98.66% | 48.6 | 99.55% |
sau 36 giờ | 16.2 | 99.91% | 1.9 | 99.98% |
| 0.95 | 99.99% | 0 | 100% |
sau 60 giờ | 0 | 100% | 0 | 100% |
p > 0.05 |
Nhận xét:MĐKSTSR của bệnh nhân được điều trị Artesunate ở 2 nhóm đơn trị liệu giảm nhanh vào ngày đầu và sạch hẳn vào giờ thứ 60. Hiệu lực cắt KSTSR của 2 phác đồ tương đương nhau và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê(p > 0.05).
Biểu đồ 1: Diễn tiến tốc độ giảm KSTSR sau mỗi 12 giờ ở hai phác đồ
CHỈ SỐ | Phác đồ 5 ngày | Phác đồ 7 ngày |
| | | |
| n = 42 | n = 42 |
SỐ CA SỐT CÒN LẠI | sau 12 giờ | 13 | 30.95% | 12 | 28.57% |
sau 24 giờ | 23 | 54.76% | 27 | 64.29% |
sau 36 giờ | 36 | 85.71% | 41 | 97.62% |
| 40 | 95.24% | 42 | 100% |
sau 60 giờ | 42 | 100% | 42 | 100% |
| p > 0.05 |
Nhận xét:Thời gian cắt sốt trung bình của hai nhóm là 28.50 ± 13.70 (phác đồ 5 ngày) và 26.40 ± 12.60 (7 ngày). Tốc độ cắt sốt nhanh sau mỗi 12 giờ theo dõi và hết hẳn sau 48-60 giờ,không thấy sự khác biệt có ý nghĩa về cắt sốt của 2 phác đồ (p > 0,05).
Biểu đồ 2: Diễn tiến chi tiết cắt sốt của 2 phác đồ artesunate sau mỗi 12 giờ
Bàn luận
Hiệu lực phác đồ đơn trị liệu Artesunate 5 ngày hoặc 7 ngày
Artemisinine và dẫn suất, đặc biệt Artesunate là một trong những thuốc sốt rét đầy hứa hẹn trong phòng chống sốt rét do có nhiều ưu điểm về mặt dược học: (i) làm giảm nhanh lượng lớn KSTSR; (ii) hiệu lực chống lại ký sinh trùng đa kháng thuốc; (iii) giải quyết nhanh triệu chứng lâm sàng; (iv) giảm lan truyền thông qua ức chế quá trình hình thành giao bào; (v) đặc hiệu trên các giai đoạn KSTSR và liệu trình dùng thuốc an toàn. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng chứng minh tỷ lệ tái phát sớm của KSTSR khi sử dụng Artesunate đơn thuần quá cao (30-42%) là một trở ngại lớn và nguy cơ cao cho phát triển kháng. Liệu nghiên cứu đơn trị liệu Artesunate từ 5 ngày đến 7 ngày có khắc phục nhược điểm tái phát sớm và trì hoãn kháng thuốc do P.falciparum hay không ?
Qua 84 bệnh nhân sốt rét do P.falciparum chưa biến chứng được chọn ngẫu nhiên vào 2 nhóm nghiên cứu điều trị đơn trị liệu Artesunate 5 ngày và 7 ngày thử nghiệm in vivo 28 ngày, cho thấy tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ ACPR từ 88.10% (5 ngày) đến 95.24 % (7 ngày). Tuy nhiên, ghi nhận tỷ lệ thất bại KSTSR muộn (LPF) trung bình từ 4.76% (phác đồ 7 ngày) và 11.90% (5 ngày) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0.01) và cả hai phác đồ đều không có thất bại điều trị sớm (ETF) cũng như thất bại lâm sàng muộn (LCF); thời gian cắt sốt (FCT) và thời gian sạch ký sinh trùng (PCT) trung bình giữa hai nhóm trong khoảng 26-28 giờ. Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu trên thế giới, như của tác giả Bunnag và cs (2005) với các tỷ lệ ACPR lần lượt là 85%, 90%, 96% và 100% hoặc nhóm Hassan và cộng sự (2006) nghiên cứu tại Tanzania cho biết liệu trình 5 ngày cho tỷ lệ ACPR là 80%; nhóm Alin và cộng sự (2006) liệu trình 4 ngày cho tỷ lệ ACPR là 80-84%; hoặc nghiên cứu gần đây ở Gabon, châu Phi dùng artesunate đơn trị liệu 3 ngày cho ACPR chỉ 72% (n = 50) nên liệu trình 3 ngày không đủ điều trị tận gốc P.falciparum (Steffen Borrmann và cs.,2003) và liệu trình 5 ngày (n = 50) thì ACPR đạt 90% (Norbert G.Schwarz và cs.,2005).
Riêng tại Việt Nam, số liệu nghiên cứu của chúng tôi tương đương với kết quả của nhóm nghiên cứu Viện Sốt rét KST- CT Trung ương khi tiến hành đánh giá hiệu lực phác đồ Artesuante đơn trị liệu 5 ngày tại Bình Phước cho kết quả đáp ứng ACPR là 92.7%, LPF là 3.65% và LCF là 3.65% (N.T.Tiến và cs.,2005). Với các kết quả trên, cho thấy liệu trình càng dài ngày thì hiệu lực càng cao hơn và thất bại điều trị sẽ thấp hơn nhiều. Tuy nhiên, việc làm thế nào để đạt được tính khả thi đi hết liệu trình điều trị, nghĩa là đạt được sự chấp thuận của cộng đồng vùng lưu hành sốt rét dùng đủ liều trong thời gian dài như thế cũng là một trở ngại.
Tiếp tục sử dụng đơn trị liệu hay nên chuyển sang điều trị dạng thuốc ACTs
Mặc dù, đến nay chưa có một tài liệu nào khẳng định kháng thuốc Artemisinine và dẫn suất trên lâm sàng, nhưng trên thực nghiệm động vật đã thấy kháng do P.Berghei, P.yoelii và P.chabaudi (WHO, 2006);Trung Quốc và Việt Nam là 2 quốc gia dùng đơn trị liệu Artesunate hơn 10 năm qua, một số nghiên cứu báo cáo giảm nhạy in vitro và nồng độ ức chế (IC50) phải tăng lên gấp 3 và nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) phải tăng lên gấp 2 lần. Riêng ở Việt Nam, nồng độ IC50 từ 1998-2001 ổn định không hề thay đổi, nhưng IC90 và IC99 phải tăng lên 2-4 lần (WHO, 2006). Mặt khác, vì thuốc Artesunate có thời gian bán hủy rất ngắn (chỉ 0.5 giờ) sẽ có tái phát sớm nếu dùng đơn trị liệu và ngắn ngày, cơ chế phát triển kháng thuốc tiềm tàng là khó tránh khỏi bởi một số thuốc sốt rét khác cũng đã xảy ra tình huống tương tự khi dùng đơn trị liệu, đồng thời qua nhiều nghiên cứu tại Trung Quốc và Việt Nam cho biết nếu dùng artemisinine đơn thuần giảm nhạy trên thử nghiệm in vitro (WHO, Artemisinine monotherapy, 2006).
Đã có nhiều báo cáo về phác đồ đơn trị liệu artesunate trong thời gian 10 năm trở lại đây với liệu trình 3 ngày, 4 ngày hoặc 5 ngày được thử nghiệm tại Thái Lan, Tanzania cho tỷ lệ khỏi ACPR từ 72-100% (Bunnag và cs., 2005; Alin và cs., 2006; Hassan và cs., 2006). Mặc dù P.falciparum đa kháng thuốc sốt rét nhưng thuật ngữ “kháng” đến thời điểm này vẫn là “ngoại lệ” đối với nhóm thuốc Artemisinine và dẫn suất. Thực tế lâm sàng, chưa báo cáo kháng thuốc artemisinine, song có ba bằng chứng đủ để cảnh báo nguy cơ kháng thuốc artemisinine:
-Sự giảm nhạy của P.falciparum với dẫn suất của artemisinine: tại Trung Quốc, việc dùng artemisinine đơn trị liệu hơn một thập niên với quy mô lớn, tính nhạy của P.falciparum trên in vitro với Artesunate giảm đáng kể từ 1988-1999, nồng độ ức chế (IC50) tăng lên gấp đôi, nồng độ ức chế tổi thiểu tăng gấp 3 lần; ở Việt Nam, thuốc Artemisinine dùng phác đồ đơn trị liệu phạm vi rộng lớn cũng cho thấy IC50 vẫn ổn định từ 1998-2001, nhưng IC90 và IC99 phải tăng đến 2-4 lần, điều đó có nghĩa là giảm nhạy rõ. Tại Cameroon, Thái Lan, Tanzania cũng ghi nhận tương tự;
-Giảm hiệu lực thuốc artemisinine từ các nghiên cứu đa quốc gia: hiệu quả điều trị của artemisinine và dẫn suất artesunate liều 12mg/kg trong 5 ngày là 71-87.5% nhưng tăng dần lên ở liều 16mg/kg trong 7 ngày thì hiệu quả lên đến 93.1%;
-Giảm hiệu lực thuốc từ những báo cáo ca bệnh đơn lẻ: 4 trường hợp (2 trường hợp ở Ấn Độ và 2 ở Thái Lan) nghi ngờ thất bại điều trị, xuất hiện lại KSTSR vào các ngày D14, D17, D21 sau khi các nhà lâm sàng đã loại yếu tố gây nhiễu như miễn dịch.
Các cố gắng và nổ lực trong thời gian qua ở các nhà khoa học là nghiên cứu cơ chế tác động của thuốc sao cho phải khác với cơ chế của các thuốc sốt rét cổ điển; mặt khác phải thường xuyên có biện pháp làm thế nào trì hoãn diễn tiến kháng thuốc khi thuốc sốt rét mới bắt đầu giới thiệu ra thị trường. Khám phá và phát minh ra một loại thuốc sốt rét mới cần đầu tư nhiều công sức, tiền của và không kể đến nguy cơ thất bại nếu như chúng ta không thực hiện hai mặt của một vấn đề nêu trên. Do vậy, trong khi chờ đợi một thuốc sốt rét mới trong tương lai, việc cần làm ngay trong thời điểm này chính là ‘kéo dài” hiệu lực hay đúng hơn là kéo dài tuổi thọ của thuốc sốt rét bằng cách bảo vệ không để gia tăng đột biến kháng thuốc.
Do vậy, dù kết quả nghiên cứu trên cho hiệu lực Artesunate vẫn còn cao (liệu trình 7 ngày), nhưng dựa trên các bằng chứng cảnh báo có thể xem là dấu hiệu cảnh báo sớm kháng thuốc, chúng ta nên dừng phác đồ đơn trị liệu, chuyển sang dùng dạng phối hợp thuốc dựa trên nền artemisinine (ACTs) là phù hợp nhất vừa để trì hoãn quá trình phát triển kháng thuốc với loại thuốc hiệu lực cao này (vì các chế phẩm thuốc sốt rét mới vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu), lại vừa phù hợp khuyến cáo WHO và Chương trình Sốt rét toàn cầu.
Kết luận và khuyến nghị
Hiệu lực của các phác đồ đơn trị liệu Artesunate 5 và 7 ngày còn khá cao (88.10-95.24%), phác đồ 7 ngày cao hơn 5 ngày; tỷ lệ thất bại KST muộn (LPF) từ 4.76% (7 ngày) đến 11.90% (5 ngày), dù chưa có trường hợp nào có thất bại điều trị sớm (ETF) hoặc thất bại lâm sàng muộn (LCF), nhưng với những bằng chứng khoa học sẽ không khỏi xuất hiện kháng nếu chúng ta vẫn tiếp tục dùng dưới dạng đơn trị liệu. Điều cần thiết là chúng ta nên làm trì hoãn kháng thông qua việc khuyến cáo dùng phác đồ thuốc phối hợp như kinh nghiệm một số quốc gia và khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới.
Giới thiệu: Một nửa dân số toàn cầu đang nằm trong nguy cơ của sốt rét và hơn một triệu ca tử vong mỗi năm. Bản đồ sốt rét đã giảm đi đáng kể hơn 50 năm qua, nhưng gánh nặng bệnh tật và vấn đề kháng thuốc chưa thể giải quyết triệt để, đặc biệt tại các vùng lan truyền cao. Sự phát triển kháng là mối đe dọa lớn nhất đối với thành công sốt rét và liên đới đến gia tăng bệnh tật và tử vong. Mặc dù Artesunate là một thuốc sốt rét tác động nhanh và vũ khí tiềm năng, nhưng việc sử dụng rộng rãi chúng trong điều trị sốt rét Plasmodium falciparum có thể gây áp lực thuốc và gia tăng kháng. Nếu vậy, điều cần thiết là phải có chiến lược trì hoãn diễn tiến kháng và thay đổi chính sách thuốc quốc gia phù hợp.
Mục tiêu: So sánh hiệu lực phác đồ Artesunate đơn trị liệu 5 ngày và 7 ngày trên bệnh nhân sốt rét P. falciparum chưa biến chứng.
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tự chứng có so sánh, liên quan đến đánh giá lâm sàng và ký sinh trùng P. falciparum.
Kết quả: Hiệu lực phác đồ đơn trị liệu Artesunate 5 ngày và 7 ngày có tỷ lệ ACPR từ 88.10% (phác đồ 5 ngày) đến 95.24% (7 ngày); tỷ lệ thất bại ký sinh trùng muộn (LPF) từ 4.76% (7 ngày) đến 11.9% (5 ngày), không trường hợp nào thất bại điều trị sớm (ETF) hoặc thất bại lâm sàng muộn (LCF). Hiệu lực cắt sốt và ký sinh trùng nhanh từ 99.99-100% sau 48 giờ điều trị.
Kết luận: Hiệu lực phác đồ đơn trị liệu Artesunate 7 ngày cao hơn 5 ngày về tỷ lệ ACPR (95.24% so với 88.10%); tỷ lệ thất bại ký sinh trùng muộn 7 ngày thấp hơn 5 ngày (4.76% so với 11.9%), không trường hợp nào có thất bại điều trị sớm (ETF) hoặc thất bại lâm sàng muộn (LCF). Hiệu lực cắt sốt và ký sinh trùng nhanh (99.99-100%) sau 48 giờ điều trị. Song vì tỷ lệ thất bại (4.76-11.9%) cao liên quan đến Artesunate cũng như dữ liệu giảm nhạy trênin vitro cho thấy có thể xuất hiện kháng thuốc với chúng không còn xa.
ARTESUNATE MONOTHERAPY EFFICACY OF 5 DAYS VS. 7 DAYS FOR THE TREATMENT OF UNCOMPLICATED FALCIPARUM MALARIA IN A MALARIA ENDEMIC AREA IN GIALAI
Background:Malaria poses a risk to half of the world's population and more than a million people die of the disease each year. The malaria map has been reduced considerably over the past 50 years, but the disease has defied eradication and drug resistance problem as well in areas of intense transmission. The development of resistance to drugs poses one of the greatest threats to malaria control and has been linked to recent increases in malaria morbidity and mortality. Although artesunate are potent and rapidly acting antimalarial drugs, their widespread use for treating patients with Plasmodium falciparum malaria raises the question of drug pressure and emerging drug resistance. If yes, need to have some strategies to delay the onset of drug resistance and to properly change National drug policy.
Objectives: To assess the efficacy of Artesunate monotherapy5days vs. 7 days regimes for the treatment of uncomplicated P. falciparum malaria.
Methods: A randomized clinical trials with groups comparision.
Results: Artesunate 7days and 5 days monotherapy efficacy of ACPR from 88.10% (5 days course) to 95.24% (7 days); LPF from4.76% (7 days course) to 11.9% (5 days course), neither case was ETF nor LCF. Fever and parasite clearance efficacy of99.99-100% at 48th post-treatment.
Conclusions: The efficacy of Artesunate 7ds regimes was higher than those 5 ds (ACPR: 95.24% vs. 88.10%); inversely, late parasitological failure in 7 ds was lower than those 5ds (4.76% vs, 11.9%), none of them were early treatment failure (ETF) or late clinical failure (LCF); the fever and parasite clearance effficacy were rapid. However, high failure rates (4.76-11.9%) associated with Artesunate monotherapy, as well as in vitro drug-susceptibility data, suggest the possibility of clinical Artesunate resistance was not so far.
Tài liệu tham khảo
1.Đ.V.Phúc, T.N.Trung, H.H.Quang và cs., (2005). Đánh giá ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc và hiệu lực phác đồ điều trị tại hai điểm sốt rét lưu hành nặng ở miền Trung-Tây Nguyên, 2003-2004. KYCTNCKH Viện sốt rét- KST- CT Quy Nhơn, 2001-2006. tr.165-164
2.Cortese JF, Caraballo A et al (2002). Origin and dissemination of Plasmodium falciparum drug-resistance mutations in South America. J Infect Dis; 186:999-1006.
3.Norbert g. Schwarz et al., (2005).5-day non-observed artesunate monotherapy for treating uncomplicated falciparum malaria in young Gabonese children. The American Society of Tropical medicine and hygiene.
4.Rehwagen C (2006). WHO ultimatum on artemisinin monotherapy is showing results. BMJ; 332: 1176.
5.T.N.Trung, H.H.Quang, N.T.Thoa, David T.M.E et al., (2001). Treatment of falciparum malaria in Vietnamese children: the need for combination therapy and optimised dosage regimes. Anals. of paediatrics tropical medicine, University of Western Australia, pp. 2-7.