Thuốc sốt rét chloroquine từ lâu được xem là thuốc sốt rét rẻ tiền, sẵn có và có có tình bền vững về hiệu lực điều trị, đặc biệt với ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax (mặc dù gần đây có nhiều công trình nghiên cứu cho biết có tỷ lệ kháng thuốc từ 6-11% qua nhiều thử nghiệm in vivo tại nhiều vùng sốt rét lưu hành trên thế giới, đặc biệt châu Phi và bắc Á). Hai loại henipavirus gây tử vong cao, đã gây bùng phát những trận dịch gần đây đã có sự nhạy cảm với thuốc chloroquine.
Theo một nghiên cứu cơ bản mới được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại đại học y Weill Cornell, đăng tải trên tạp chí Journal of Virology. Hai loại henipavirus là mục tiêu của nghiên cứu này - Hendra Virus (HeV) và Nipah Virus (NiV) – đã bùng phát nguy hiểm trong suốt những năm 1990 tại Australia và nhiều quốc gia Đông Nam Á. Virus gây ra chứng viêm não, gây tử vong và những bệnh trên hệ hô hấp của người, với tỷ lệ tử vong lên đến 75%. Gần đây, NiV đã gây ra dịch bệnh ở Bangladesh liên quan đến sự lây lan từ người sang người đã thu hút nhiều sự chú ý về NiV như một vấn đề sức khỏe toàn cầu.
Các nhà nghiên cứu tại khoa nhi thuộc đại học y Weill Cornell đã rất ngạc nhiên trước khám phá của họ về chloroquine (một thuốc an toàn, rẻ tiền, đã được sử dụng trong trận chiến chống bệnh sốt rét trong hơn 50 năm qua), lại có hiệu quả ức chế cao trước sự nhiễm trùng gây ra bởi Hendra và Nipah. “Sự thật việc chloroquine được sử dụng an toàn và rộng rãi ở người có nghĩa là nó có thể bỏ qua những rào cản thông thường liên quan với việc phát triển thuốc và chuyển nhanh chóng sang giai đoạn thử nghiệm lâm sàng”, theo phát biểu của giáo sư nhi khoa Anne Moscona và là nhà vi sinh và miễn dịch học tại Weill Cornell, đồng thời cũng là tác giả chính của nghiên cứu. Bà cũng là phó chủ tịch của chương trình nghiên cứu lĩnh vực nhi khoa tại bệnh viện NewYork-Presbyterian Hospital-Trung tâm y khoa Weill Cornell.
Giáo sư Anne Moscona cho biết “Chloroquine tạo ra một cơ hội tốt trong việc đưa nó thông qua tiến trình phát triển đúng lúc để ngăn chặn những dịch bệnh trong tương lai của căn bệnh lây nhiễm chết người này”. Giống như cúm gia cầm, SARS và những virus gây bệnh Ebola; Hendra và Nipah là mầm bệnh được truyền từ động vật, cụ thể là thú. Điều này có nghĩa là chúng vốn có nguồn gốc từ một loài thú nào đó nhưng có thể di chuyển giữa những loài thú và giữa thú với người. Hiện tại không có loại vaccine hay biện pháp chữa trị hiệu quả nào chống lại hai loại henipavirus này, vốn được chính phủ Mỹ đưa vào danh sách có nguy cơ là những tác nhân khủng bố sinh học (ảnh bên là sự phân bố dịch bệnh dohenipavirus gây ra)
Cùng với giáo sư Anne Moscona, một cộng sự cùng khoa của bà là bác sĩ Matteo Porotto, bác sĩ Fraser Glickman thuộc đại học Rockefeller, đã triển khai một xét nghiệm phát hiện thay thế virus thật bằng một virus ở bò không nguy hiểm. Họ đã thiết kế một loại virus lai, được gọi là “type giả”, với đặc trưng là những protein lấy từ bề mặt virus Hendra nhưng thiếu bộ gen của Hendra. Type giả này hoạt động theo mọi cách tương tự với bản gốc gây chết người của nó, nhưng theo một cách đặc biệt duy nhất, nó chỉ thành công trong việc tạo ra bản sao không nguy hiểm của chính nó. Các nhà nghiên cứu đã thiết kế kỹ thuật phát hiện của họ một cách chuyên biệt để cho thấy những phản ứng mức độ phân tử ở một vài giai đoạn trong vòng đời của mầm bệnh. Thay vì tập trung một cách chuyên biệt vào cách thức virus xâm nhập vào trong tế bào, tương tự như những phương pháp phát hiện type giả khác, như giải thích của bác sĩ Porotto thì ở đây các nhà nghiên cứu đã có thể xem xét cách thức Hendra trưởng thành, sinh sôi và tồn tại trong tế bào và phát hiện những hợp chất can thiệp vào sự phát triển của nó ở những giai đoạn khác nhau.
Bản thân chloroquine không ngăn chặn virus Hendra hay Nipah xâm nhập vào trong tế bào, song phân tử chloroquine có vẻ như ngăn chặn hoạt động của một enzyme then chốt, được gọi là cathepsin L, có ý nghĩa then chốt trong sự phát triển của virus. Nếu không có enzym này, những virus Hendra hay Nipah mới không thể tạo ra protein cho phép những virus này hợp nhất với tế bào chủ. Những virus mới được tạo ra sau đó không thể lây lan sự viêm nhiễm; hay nói cách khác, chúng có thể lan tràn, nhưng không có khả năng gây bệnh. Một vài virus có nguồn gốc từ thú khác cũng phụ thuộc vào cathepsin L – đáng kể nhất là Ebola. “Những phát hiện và phương pháp này cóthể dễ dàng được ứng dụng cho những nghiên cứu về Ebola và những căn bệnh nguy cấp khác”, đó chính là ý kiến của bác sĩ Porotto. Các nhà nghiên cứu tin chắc rằng việc sử dụng chiến thuật phát hiện mới này sẽ tạo ra nhiều đích virus có khả năng giúp ích cho nghiên cứu và mở rộng lĩnh vực nghiên cứu thuốc kháng virus vào lúc mà những thuốc kháng virus đang là nhu cầu cấp thiết cho các căn bệnh khẩn cấp. Nhóm dự định sẽ phối hợp với những nghiên cứu trong lĩnh vực này trong tương lai gần, để đánh giá được tiềm năng hiệu quả của chloroquine và những hợp chất liên quan ở những người mắc virus Nipah.