Phân tích kiểu gen và kiểu hình của nguồn căn kháng artemisinine của Plasmodium falciparum trong điều kiện in vitro; Nâng cao giám sát kháng thuốc sốt rét (Improving Surveillance for Antimalarial Drug Resistance); Sốt rét siêu kháng thuốc - có phải là mối đe dọa mới cho chúng ta không?; Kháng thuốc SR đã lập ra 1 sân chơi mới - nghĩa là tăng thêm mối lo ngại mới cho thế giới; Thêm một hợp chất mới chống lại sốt rét đang được nghiên cứu 2012
Phân tích kiểu gen và kiểu hình của nguồn căn kháng artemisinine của Plasmodium falciparum trong điều kiện in vitro
Nhóm tác giả gồm Matthew S. Tucker, Tina Mutka, Kansas Sparks, Janus Patel và Dennis E. Kyle cùng tiến hành nghiên cứu sự xuất hiện kháng artemisinine tại Campuchia là điểm quan trọng cho đặc trưng kháng của nhóm thuốc này. Nghiên cứu mang tên “Phenotypic and Genotypic Analysis of In vitro - Selected Artemisinin-Resistant Progeny of Plasmodium falciparum”. Trước đây , mức độ kháng thuốc của Plasmodium falciparum chỉ trung bình và nhìn chung trên in vitro đối với các thuốc artelinic acid (AL) và artemisinin (QHS). Ở đây, các tác giả mở rộng về các cố gắng lựa chọn sớm hơn để tạo ra các mức độ về nồng độ kháng có liên quan đến lâm sàng, và các kết quả có biểu hiện đặc trưng về mặt kiểu hình và kiểu gen. Các thử nghiệm về tái phát sớm (recrudescence assays) xác định khả năng kháng và các dòng cha mẹ để hồi phục sau khi phơi nhiễm với mức độ kháng trên lâm sàng một cách thích đáng. Điều thú vị, các dòng cha mẹ (parent clone (D6) dung nạp đến 1.500 ng/ml QHS, nhưng ký sinh trùng kháng, D6.QHS340 × 3, hồi phục sau phơi nhiễm lên đến 2.400 ng/ml QHS. Các ký sinh trùng D6, W2 và TM91c235 kháng, tất cả đều biểu hiện tăng nồng độ IC50s với đa thuốc artemisinin, với tỷ lê kháng tăng gấp 3 lần đối với QHS và AL, song mức độ kháng ghi nhận theo phương pháp chuẩn là giảm đi đáng kể đối với các dòng ký sinh trùng phục hồi từ 2.400-ng/ml áp lực thuốc. Một thử nghiệm mới với đánh dấu chất đồng vị phóng xạ hypoxanthine cho thấy một mức độ kháng cao hơn trên in vitro hơn là các phưng pháp xanh chuẩn SYBR chuẩn (standard SYBR green method).
Phân tích số merozoite trong các ký sinh trùng kháng tìm thấy ở dòng cha mẹ D6 và TM91c235 có merozoites ít hơn đáng kể, ngược lại tổ tiên W2 kháng nhiều hơn đáng kể. sự khuếch đại pfmdr1 tăng lên tỷ lệ với sự gia tăng nồng độ thuốc dung nạp bởi W2 và TM91c235, nhưng không kháng với D6. Nhìn chung, họ đã xác định kiểu hình khángcũng như sự giảm nhạy với artemisinins cùng với khả năng phục hồi từ thể ngủ do thuốc gây nên sau khi dùng thuốc có nồng độ dưới ngưỡng lâm sàng (drug-induced dormancy following supraclinical concentrations of the drug).
Nâng cao giám sát kháng thuốc sốt rét (Improving Surveillance for Antimalarial Drug Resistance)
Nghiên cứu này do nhóm tác giả Jean-Paul Chretien, Mark Fukuda, Harald Noedl cùng tiến hành và cho thấy Các nổ lực phòng chống sốt rét toàn cầu lệ thuộc rất nhiều vào các dẫn chất artemisinine vì kháng hiện nay đã kháng với các thuốc sốt rét khác. Sự xuất hiện kháng thuốc artemisinin có thể đe dọa là thảm họa cho những cá nhân bị sốt rét, trừ phi phát hiện thông qua hệ thống giám sát kịp thời và đánh giá các biện pháp điều trị mới và can thiệp mới để ngăn chặn kháng lan rộng. Tuy nhiên, thay vì giám sát kháng thuốc, các tài trợ chính cho chương trình phòng chống sốt rét cần nhấn mạnh đến các chiến lược thuốc sốt rét khác mạnh hơn.
Các nhà tài trợ có thể hiểu rằng tìm kiếm các thành quả y tế công cộng ngay với các biện pháp can thiệp hữu hiệu, nhưng triển khai rộng rãi và nhanh chóng các dẫn chất artemisinin với thiếu sự chú ý đến kháng thuốc là không nên, do vậy đây có thể là một vấn đề. Phát triển một hệ thống cảnh báo sớm cho kháng artemisinin và các thuốc sốt rét khác nên ưu tiên hàng đầu trong các chương trình PCSR và các nhà tài trợ hỗ trợ.
Sốt rét và lao: Việc xác định sốt rét đa kháng thuốc (The case for defining XDR malaria)
Sự xuất hiện kháng artemisinin tạo ra một nhu cầu xác định nhóm phụ mới của sốt rét kháng thuốc hay sốt rét đa kháng thuốc (a new subgroup of drug-resistant malaria, XDR malaria). XDR có nghĩa tiếng Anh là Extensive Drug Resistance hay siêu kháng thuốc. Cái nhãn hiệu như thế được cân nhắc bởi vì ý nghĩa của nó do mất đi tính tiềm năng của thuốc artemisinin nổi bật lên mối đe dọa vùng lưu hành sốt rét mở rộng với hiệu lực thuốc ACT giảm đi nhiều, tương tự với sự lan rộng kháng thuốc trước đây đối với các nhóm thuốc sốt rét khác. Từ quan điểm y tế công cộng, tình trạng này phải cẩn thận, đằng sau khuyến cáo của WHO sẵn có cho chính sách thuốc sốt rét. Chương trình phòng chống sốt rét của Thái Lan và Campuchia thiết lập các biện pháp phòng chống ưu tiên đặc biệt chống lại tình trạng kháng thuốc lan rộng mức độ cao. Họ làm việc với nhau để ngăn chặn ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, mục tiêu tham vọng của họ là loại trừ chủng ký sinh trùng tại tâm chấn kháng (epicenter of resistance). Để làm được điều đó, chúng ta phải đối mặt một số thử thách, chẳng hạn thiếu các thuốc thay thế phù hợp với hoàn cảnh hiện nay.
Không phải tất cả quốc gia có lưu hành sốt rét đều báo cáo tốt, hình thành tình trạng kháng với các thuốc từ kinh điển đến thuốc mới đã được trình bày tại biên giới Thái Lan – Campuchia. border. Mặc dù kháng artemisinin đã không mô tả ngoài khu vực châu Á, một tình huống dẫn đến các ký sinh trùng kháng thuốc phát triển siêu đa kháng diễn ra khắp mọi nơi. Châu Phi là một mối quan tâm đầu tiên vì tỷ lệ mắc sốt rét cao. Kháng CQ và kháng cao với SP có tỷ lệ cao ở một số nơi tại châu Phi như Kenya. Một viên cảnh liên quan có thể là làm củng cố tính kháng với amodiaquine và SP và / hoặc phát triển một chủng kháng mới chống lại lumefantrine và / hoặc mefloquine (điều này được biết hoạt tính của thuốc liên quan đến kết quả lumefantrine trong in vitro). Trong những năm gần đây, phối hợp thuốc Artemether và Lumefantrine, hay biệt dược Coartem, được giới thiệu phạm vi rộng lớn tại châu Phi. Tỷ lệ tái phát nhiễm P. falciparum cao đã phát hiện ở Zanzibar sau khi liệu pháp Coartem và bao gồm một số ca tái phát sớm (recrudescence) liên quan với ký sinh trùng kháng lumefantrine.
Dù thuốc ACTs chứa mefloquine chưa bao giờ chấp nhận tại các quốc gia châu Phi, phối hợp thuốc artesunate-mefloquine này hiện đang dùng phổ biến tại các một số thị trường châu Phi. Các thuốc sốt rét không sử dụng theo hướng dẫn quốc gia, có thể đủ dùng rộng rãi, đặc biệt tại các hệ y dược tư nhân của các quốc gia thu nhập thấp, để dẫn đến tăng áp lực thuốc,hoặc kháng thuốc hoặc kháng chéo.
Sau hai thập niên dùng, thuật ngữ multidrug resistance không khởi sự hành động một lần. Thiết kế vùng lưu hành sốt rét với chủng P. falciaparum kháng artemisinin như một vùng sốt rét siêu kháng thuốc sẽ là tín hiệu cần thiết để hành động, như là sự quan tâm của cộng đồng và cung cấp kinh phí ưu tiên. Một cảm giác thoiar mãn tương tự với bệnh lao siêu kháng thuốc, mất đi tính độc tôn trong điều trị và cần có các nổ lực toàn cầu để ngăn chặn và điều trị kháng thuốc theo hướng dẫn WHO năm 2006.
Trong hầu hết các vùng, con đường đầu tiên chống lại lao siêu đa kháng thuốc (XDR TB) là phòng sự xuất hiện của nó thông qua điều trị chủng lao nhạy cảm với thuốc tối ưu. Do đó, từ triển vọng của chương trình phòng chống, biết rằng XDR TB tồn tại trong cộng đồng đã không thay đổi trong bối cảnh chung của chiến lược Stop TB strategy www.who.int/tb/strategy/en/. Tuy nhiên, sự xác định kháng thuốc đặc biệt là cần thiết để quản lý lâm sàng. Chi phí điều trị các trường hợp MDR hay XDR TB cần óc sự hỗ trợ thêm vào chi phí của nguồn ban đầu, bao gồm mạng lưới xét nghiệm nâng cấp, mở rộng và tiếp cận các thấy thuocs chuyên khoa cũng như y tá chăm sóc. Tương tự, sự phát triển bất kỳ kháng một loại thuốc sốt rét nào đã giới thiệu một bộ bổ sung vào tài chính và các thách thức về mặt thực hành cho CTPCSRQG.
Đối với các thầy thuốc lâm sàng chịu trách nhieeumj điều trị các ca sốt rét riêng rẻ ngoài các vùng sốt rét lưu hành, thuật ngữ sốt rét XDR cũng được lưu ý đặc biệt. Chẳng hạn, Coartem thường kê đơn đối với sốt rét kháng thuốc. Cho nó tiềm năng hiệu lực còn giới hạn chống lại sốt rét do P. falciparum tại phía tây Campuchia và mối liên quan giữa hoạt tính mefloquine và lumefantrine trên in vitro, kê toa đó cho các bệnh nhân bị sốt rét XDR sẽ cần cân nhắc.
Giới thiệu thuật ngữ sốt rét XDR trong sự liên quan kháng artemisinin không nên khích lệ triển khai ACTs tại châu Phi, nơi mà người ta hy vọng các liệu trình thuốc này sẽ góp phần thay thế làm giảm đi tỷ lệ mắc mới và tỷ lệ tử vong. Song, nó sẽ giúp cảnh báo các quốc gia gần đây đã dùng ACTs mà kháng có thể và cảnh giác trong giám sát kháng thuốc và đẩy mạnh sử dụng thuốc là hợp lý. Các chương trình phòng chống đôi khi triển khai tiếp cận toàn cầu thuốc ACTs nhưng không thể điều chỉnh hoặc đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, đặc biệt khi ACTs có sẵn rộng rãi trong các bộ phận chăm sóc y tế không chính thức hoặc tư nhân. Một sự cân bằng như thế về mối quan tâm này cũng nên cân nhắc.
Sốt rét siêu kháng thuốc - có phải là mối đe dọa mới cho chúng ta không?
Rohan Parikh- một sinh viên y khoa của đại học Baroda Medical, Gujarat, Aand Độ thảo luận về vấn đề y tế công cộng hiện tại là sốt rét kháng thuốc artemisinin trên toàn cầu.
XDR (Extensive drug resistance), sốt rét gây ra bởi một loại ký sinh trùng thông qua muỗi truyền. Trên cơ thể người, ký sinh trùng nhân lên trong gan và rồi chúng nhiễm vào trong các hồng cầu. Các triệu chứng của sốt rét bao gồm sốt, nhức đầu, nôn và thường xuất hiện giữa 10-15 ngày sau khi bị muỗi đốt. Nếu không điều trị, sốt rét có thể nhanh chóng đe dọa tính mạng do thiếu máu và suy các đa cơ quan nhanh. Các biện pháp can thiệp chính gồm có điều trị hiệu quả và kịp thời bằng thuốc ACTs, sử dụng màn chống muỗi cho nhóm người nguy cơ, phun tòn lưu trong nhà. Vào năm 2008, có khoảng 247 triệu ca bệnh sốt rét và gần 1 triệu ca tử vong, hầu hết trong số đó là các trẻ em đang sống tại châu Phi. Cứ mỗi 45 giây tại châu Phi chết một trẻ vì sốt rét, số ca đó chiếm 20% số ca tử vong ở trẻ em. Chi phí sức khỏe đầu tư cho sốt rét bao gồm cả phòng bệnh và điều trị.
Tại nhiều quốc gia mà gánh nặng sốt rét nhiều, chiếm đến:
• đến 40% chi phí cho y tế công cộng;
• 30% - 50% cho bệnh nhân nhập viện;
• đến 60% số ca ngoại trú đén khám tại các phòng khám.
Biết rằng mô hình nhạy cảm với thuốc của sốt rét có được trong một vùng lưu hành sốt rét đặc biệt giúp cho không chỉ đè ra quyết định chọn lựa thuốc mà còn tiên đoán bệnh nhân. Từ các triển vọng của sốt rét với ý tế công cộng, các thông tin về kháng thuốc rất hữu ích cho lập kế hoạch chiến lược. Đối với sốt rét, mức độ kháng thuốc trong một vùng lưu hành đặc biệt thường có được từ các nghiên cứu in vivo và in vitro trên các mẫu máu người nhiễm bệnh sốt rét.
Hiện nay có sẵn nhiều thuốc để điều trị sốt rét, nhưng do xuất hiện kháng theo ghi nhận của WHO đang bị thay đổi. Việc điều trị sốt rét do P. falciparum đã thay đổi về vấn đề điều trị tận gốc (radically) trong những nắm gần đây. Tại các vùng lưu hành sốt rét, WHO giờ đây khuyên dùng ACTs như thuốc đầu tay. Trong một số nghiên cứu lớn thực hiện tại châu Á, artesunate loại tiêm đã làm giảm đi tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính rất nhiều lên đến 35% từ tỷ lệ thu được như quinine. Nên artesunate cũng là một lựa chọn ưu tiên.
Dấu hiệu ở thuốc artemisinins trở nên kém hiệu lực chống lại P.falciparum giờ đây là một bằng chứng tại biên giới Thái Lan -Cambodia dẫn đến hậu quả tiềm tàng nghiêm trọng về các ký sinh trùng dung nạp với thuốc Artemisinine đang lan rộng thêm, như đã từng xảy ra đối với CQ và SP. Sự xuất hiện kháng artemisinin tạo ra nhu cầu xác định một phụ nhóm mới của sốt rét kháng thuốc, hay gọi là siêu kháng thuốc (XDR malaria). Một nhãn như thế nên cân nhắc vì ý nghĩa tiềm tàng mất đi hiệu lực của thuốc artemisinin và điểm son đe dọa các vùng sốt rét lưu hành có hiệu lực ACTs kém, tương tự như mối đe dọa kháng thuốc toàn cầu trước đây đối với các nhóm thuốc khác. Phát triển kháng thuốc với nhiều thuốc như đã trình bày tại biên giới Campuchia và Thái Lan. Mặc dù kháng chưa được mô tả tại các vùng ngoài châu Á, song một tình huống dẫn đến phát triển ký sinh trùng kháng thuốc siêu như thế sẽ xảy ra bất cứu nơi đâu.
Kháng thuốc sốt rét làm ẩn chứa hoặc làm suy yếu một số thanh quả của phòng chống sốt rét và do đó, nó sẽ là mối đe dọa cho y tế công cộng. Truy tìm mô hình hiệu lực thuốc bị suy yếu là cần thiết để quản lý thích hợp ca lâm sàng và để xác định ngưỡng chính sách điều trị của quốc gia. Sự gia tăng tỷ lệ kháng thuốc nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu và xuất hiện kháng artemisinin tại Đông Nam Á cho thấy thời gian xác định và chống lại sốt rét siêu kháng thuốc đã đến gần. Điều này khiến cho chúng ta rút ngắn các thuốc có hiệu lực sẵn có của các thuốc dang điều trị. Sử dụng thuốc sốt rét không hợp lý so với hướng dẫn của quốc gia và liều sử dụng không hợp lý sẽ là trách nhiệm gây tạo ra vấn đề này. Sốt rét - nếu không điều trị đúng lúc thì có thể dẫn đến tử vong cao và dịch sẽ đe dọa hơn cả cúm H1N1 trong khi điều này tỷ lệ tử vong thấp so với các ca lâm sàng đã xảy ra.
Giờ đây đã có những cơ quan quốc tế đưa ra các hướng dẫn để đối phó với các vấn đề này và phòng chống nảy sinh dịch. Đánh dấu điều này bởi nhiều cơ quan quốc tế như “XDR MALARIA” có thể giúp các bác sĩ vùng sâu vùng xa hiểu biết về vấn đề toàn cầu và nhanh tay ngăn chặn chúng.
Kháng thuốc SR đã lập ra 1 sân chơi mới - nghĩa là tăng thêm mối lo ngại mới cho thế giới
Tại Đông Nam Á, sốt rét do P. falciparum giờ đây nổi lên vấn đề kháng thuốc với loại thuốc đầu tay và như thể thiết lập một nền tảng mới tại khu vực tây Thái Lan, theo WHO. Vùng mới ở Thái Lan như một chảo lửa cùng với Cambodia, Vietnam và Myanmar, rất khó mà chống chọi lại tình trạng kháng thuốc lan rộng. Dù có những nổ lực ngăn chặn, song khả năng chủng này có thể lan rộng sang châu Phi, vẫn là vấn đề nan giải vì nơi đây là vùng được xem gánh nặng sốt rét nhiều nhất. Hai lần trước đây, kháng thuốc cũng đã lần đàu tiên lan rộng đến châu Phi xuất phát từ châu Á (trong đó 90% gánh nặng sốt rét nằm tại châu Phi). Tình hình sốt rét khu vực biên giới Thái Lan - Campuchia tương đối nhẹ so với các vùng khác, nhưng không hiểu vì một lý do gì điểm này lại có một tình trạng dung nạp thuốc như thế, từ CQ, đến SP. Từ năm 1980 - 2004, các tử vong sốt rét giảm đi 3 lần ước tính đến 1.8 triệu theo ấn bản trên The Lancet.
Các liệu pháp thuốc Acts giờ đây chiếm đầu bảng trong các nhóm thuốc điều trị sốt rét trên thế giới đã giúp cho công tác khống chế dịch xảy ra. Artemisinin thường được kê như một phần của thuốc ACTs, nơi mà thuốc tồn tại kéo dài trong máu và tồn lưu diệt ký sinh trùng. Nhờ vào sự nổi bật ở trên ký sinh trùng theo hai cách cùng một lúc, khả năng của các đột biến dẫn đến kháng thuốc dẫn đến kháng 2 thuốc đồng thời về mặt lý thuyết là nhỏ vô cùng.
Việc triển khia dùng ACTs hàng loạt với nhu cầu có thể vượt hơn 250 triệu liều vào năm 2011. Mất đi ACTs như một liệu pháp hiệu quả dẫn đến một kết cục lớn. Phòng chống sốt rét hoàn toàn lệ thuộc vào thuốc ACTs - theo tác giả Adjen Dondorp cho biết. Nhưng hiệu lực của thuốc artemisinin đang yếu dần, dù năng lực của chúng là rất đáng kể. Những hành động nhanh như thể các dấu mốc của thuốc, nhưng ký sinh trùng dọc theo biên giới Thái Lan - Campuchia cho thấy luồng dược động học của thuốc chậm. Thời gian để làm sạch ký sinh trùng đã kéo dài hơn trong vòng này. Các dấu hiệu lo lắng bắt đầu xuất hiện vào năm 2002. Các nghi ngờ ban đầu liên quan đến thuốc đi kèm, như mefloquine. Nhưng vào năm 2006, artemisinine mất đi một bước. một số ký sinh trùng tìm thấy trong một số vùng địa lý vẫn còn sau khi đã dùng liệu trình chuẩn 3 ngày. Thời gian làm sạch ký sinh trùng được biết như dấu hiệu kháng thuốc.
Thêm một hợp chất mới chống lại sốt rét đang được nghiên cứu 2012
Các thông tin trên đến từ các nhà khoa học của Ấn Độ, các nhà khoa học này đã đạt được một thành quả trong nghiên cứu với một hợp chất mới có nguồn gốc thiên nhiên chống lại các chủng khác nhau của KSTSR. Một nhóm nghiên cứu gồm những nhà khoa học đến từ các viện nghiên cứu khắp quốc gia thực hiện trên các loài sinh vật biển chiết suất ra chất hóa học có tiềm năng chống lai sốt rét. Các chất chiết suất của hơn 200 vi sinh vật từ từ các loài nấm biển (marine fungi), rong biển (seaweeds), cây đước (mangroves), bọt biển (sponges), các động vật biển có xúc tu như san hô (cnidarians), loài nhuyễn thể (molluscs), động vật không xương sống da gai ở biển (echinoderms) và động vật lớp hải tiêu (ascidians) được các nhà khoa học sàng lọc trong hai pha đầu tiên của dự án bắt đầu từ năm 2004. Khoảng 25 vi sinh vật cho thấy có sự hiện diện của chất chống sốt rét.
Hai ứng cử viên hứa hẹn đã được báo cáo có hiệu lực chống lại các chủng kháng và chủng nhạy của ký sinh trùng sốt rét. Một trong số đó có biểu hiện có đến 10 hợp chất chống sốt rét. Một số thuốc hứa hẹn dẫn đầu rất hiệu quả, ngay cả nồng độ thấp. Các nỏ lực cố gắng đăng ký bản quyền bắt đầu.
Dự án tên “Khám phá các thuốc chống sốt rét từ các vi sinh vật biển” (‘Discovering Anti-malarials from Marine Organisms) liên quan và phối hợp với các cơ quan như Trung tâm đa dạng sinh học biển (Centre for Marine Biodiversity) của trường đại học Kerala, Trung tâm quốc tế về nghiên cứu di truyền và công nghệ sinh học (International Centre for Genetic Engineering and Biotechnology_ICGEB), New Delhi; Viện Hóa học Ấn Độ (Indian Institute of Chemical Technology_IICT), Hyderabad; Viện công nghệ nguồn sinh họcHimalayan (Institute of Himalayan Bioresource Technology_IHBT), Palampur. Đơn vị nghiên cứu công nghệ sinh học của chính phủ Ấn Độ, cấp quỹ và ngân sách cho dự án. Các vi sinh vật biển được thu thập từ đáy biển, các chất chiết của chúng được chuẩn bị và cho chuyển hóa theo kỹ thuật (metabolite fingerprinting) tại Trung tâm Đa dạng sinh học Biển để phát hiện các đặc tính hóa học và sinh học của chúng. Các chất chiết đó được gởi đến ICGEB nơi mà chúng sẽ được sàng lọc để xem hoạt tính chống sốt rét sử dụng thử nghiệm “State-of-the-art high-throughput (HTP) assays” để xác định nhanh các chất có hoạt tính.
Trong khi làm sáng tỏ cấu trúc (xác định cấu trúc hóa học) là một công việc tại IICT, các hợp chất sẽ được tổng hợp tại IHBT, để cho ra các chất chuyển hóa có hoạt tính sinh học về mặt số lượng đòi hỏi nghiên cứu thêm và cần có nhiều thử nghiệm lâm sàng hơn.
Trường đại học Kerala đã ký một biên bản ghi nhớ (Memorandum of Understanding) với ICGEB về chia sẻ và phối hợp quyền tác giả và sở hữu trí tuệ. Các vi sinh vật được lựa chọn thông qua tiến trình phức tạp quan sát dưới nước để xem tương tác sinh thái hóa học biển (marine chemical ecological interactions), theo bởi các thực nghiệm la bô và thực địa. Các mẫu được thu thập hầu hết từ Gulf của Mannar và Vịnh Palk ở đó có rất nhiều dải san hô ngầm.
Các nổ lực của toàn cầu?
“Kháng thuốc đã nổi lên như một thách thức lớn nhất đối mặt với phòng chống sốt rét hôm nay. KSTSR đã phát triển nhiều chiến lược né tránh hầu hết các liệu pháp điều trị sẵn có. Điều này đã khiến cho giới khoa học cùng với toàn cầu xác định một thuốc hay hơp chất mới hơn, tốt hơn khả thi hơn chống lại sốt rét, K. Padmakumar, giám đốc trung tâm đa dạng sinh học biển giải thích và ông là một trong những nghiên cứu viên chính của dự án, đã tiến hành hơn 200 cuộc lặn có mang bình khí nén đẻ thu thập mẫu từ đáy biển.
Hợp chất chống sốt rét tiềm năng nhìn chung được thực hiện nhòe vào các vi sinh vật biển như một cơ chế bảo vệ để ngăn cản các chất khác hoặc tác nhân khác, giảm đi tác động đến môi trường, ngăn ngừa quá phát hay bảo vệ tránh khỏi tia cực tím. “Những gì chúng ta cần thiết làm là một cơ chế bảo vệ cho vi sinh vật biển để phát triển các chất chuyển hóa có hoạt tính sinh học mà óc thể sử dụng chúng để chống lại KSTSR”. Tiến sĩ Padmakumar nói như thế.
Tiến đến pha 3?
Trong suốt giai đoạn 3 của dự án, các nhà khoa học sẽ thu thập nhiều mẫu hơn để xác định các thành phần hóa học có đặc tính tác động chống sốt rét. Điều này sẽ thực hiện bởi cơ chế tỏng hợp để tránh nhu cầu thu thập quá mức từ thiên nhiên.