Ung thư tế bào gan là ung thư xuất phát từ gan còn được gọi là ung thư gan nguyên phát hoặc ung thư gan. Gan được cấu tạo từ nhiều loại tế bào khác nhau (tế bào ống mật, mạch máu và những tế bào dự trữ mỡ), tuy nhiên 80% mô gan là do tế bào gan tạo nên, vì vậy ung thư gan nguyên phát chủ yếu (> 90-95%) xuất phát từ tế bào gan và được gọi là ung thư tế bào gan hoặc carcinoma.
Ung thư biểu mô tế bào gan là bệnh ung thư phổ biến thứ 5 trên toàn thế giới và đứng thứ 3 về chịu trách nhiệm cho tử vong do ung thư và tỷ lệ mắc sẽ tăng thêm và đạt tới đỉnh điểm vào năm 2015-2020 và ung thư biểu mô tế bào gan là kết quả của một trong các tổn thương ác tính nhất, mang tầm quan trọng quy mô trên toàn cầu. Khoảng ¾ số trường hợp HCC được phát hiện ở Đông Nam Á (Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Triều Tiên và Nhật Bản). HCC cũng thường thường gặp ở vùng hạ sa mạc Sahara Phi Châu ( Mozambique và Nam Phi).
Tần suất HCC ở Đông Nam Á và vùng hạ sa mạc Saharan Phi Châu là hơn 20 trường hợp trên 100.000 dân số. Trái lại, tần suất HCC ở Bắc Mỹ và Tây Âu thì thấp hơn nhiều, ít hơn 5/100000 dân số. Tuy nhiên, tần suất HCC trong số những thổ dân ở Alaska thì được so với tần suất ở Đông Nam Á. Hơn nữa, những dữ liệu gần đây cho thấy rằng tần suất HCC ở Mỹ nói chung đang gia tăng. Sự gia tăng này là do viêm gan siêu vi C mạn tính mắc phải và do nhiễm độc gan mà gây ra HCC.
Những yếu tố nguy cơ của ung thư tế bào gan là gì ?
Viêm gan siêu vi B (VGSVB ) : Vai trò của VGSV B trong việc gây HCC đã được biết rõ. Một vài bằng chứng đã chỉ ra được vai trò mạnh mẽ của yếu tố này. Như những ghi nhận trước đây thì tần suất của HCC liên quan tới tần suất của HBV mắc phải. Thêm vào đó, những bệnh nhân bị HBV có nguy cơ cao bị HCC nếu là đàn ông xơ gan do HBV (gây sẹo ở gan) và tiền căn gia đình bị HCC. Tuy nhiên, có lẽ bằng chứng có tính thuyết phục nhất là nghiên cứu tiền cứu ( ước đoán sau này) được thực hiện vào những thập niên 1970 tại Đài Loan liên quan đến nam công nhân trên 40 tuổi. Trong nghiên cứu này, những nhà điều tra cho thấy rằng nguy cơ tiến triển HCC ở những công nhân bị VGSV B cao gấp 200 lần so với những công nhân không bị VGSV B!Những nghiên cứu trên động vật cũng cho thấy bằng chứng HBV gây ra HCC. Ví dụ, chúng tôi đã có thử nghiệm trong việc tạo ra HCC ở động vật có vú bị nhiễm HBV tự nhiên. Bằng cách tiêm vào chuột gen của virus đã được biến đổi, các nhà khoa học đã gây ra được HCC trên chuột này mà trước đó chuột này không có nguy cơ bị HCC (chuột biến đổi gen là chuột được tiêm vào chất gen mới, lạ).HBV gây ra HCC như thế nào? Ở những bệnh nhân bị cả HBV và HCC, những chất liệu di truyền của HBV thường được tìm thấy trong gen của tế bào ung thư. Do đó, người ta nghĩ rằng có một vùng đặc biệt của bộ gen HBV (mã di truyền ) đã xâm nhập vào gen của tế bào gan. Chất gen của HBV này có thể phá huỷ chất gen bình thường của tế bào gan và làm cho tế bào gan trở nên bị ung thư.Điều quan trọng của HCC là thường kèm với HBV mạn tính mắc phải ở những vùng mà HBV gặp không nhiều như Mỹ, thì HCC tương đối không thường gặp. Lý do cho biết điều này là hầu hết những người bị HBV mạn mắc phải thường bị nhiễm lúc đã trưởng thành. Tuy nhiên, HCC cũng có thể gặp ở những người trưởng thành bị HBV mạn, nếu có thêm những yếu tố nguy cơ khác như : nghiện rượu mạn, hoặc nhiễm đồng thời HCV mạn.
Viêm gan siêu vi C :Nhiễm siêu vi C ( HCV) cũng liên quan tới sự tiến triển của HCC. Thật ra, ở Nhật, HCV chiếm trên 75% trường hợp bị HCC. Giống như HBV, đa số bệnh nhân HCC bị HCV đã kèm với xơ gan. Trong một vài nghiên cứu tiền cứu và hồi cứu của bệnh cảnh tự nhiên viêm gan siêu vi C, trung bình thời gian tiến triển HCC là khoảng 28 năm sau khi bị nhiểm HCV. Bệnh nhân bị nhiễm siêu vi C mà tiến triển tới xơ gan rồi thì khoảng 8-10 năm sau HCC xảy ra. Một vài nghiên cứu tiền cứu ở Châu Âu cho thấy rằng tần suất hàng năm của HCC ở bệnh nhân xơ gan do HCV thay đổi từ 1,4-2,5% mỗi năm.Ở những bệnh nhân bị HCV, những yếu tố nguy cơ tiến triển tới HCC bao gồm sự hiện diện của xơ gan, tuổi cao, giới nam, sự gia tăng alpha-fetoprotein cơ bản ( là dấu hiệu ung thư trong máu), nghiện rượu, đồng nhiễm với HBV. Vài nghiên cứu gần đây cho thấy rằng HCV genotype 1b ( là genotype thường gặp ở Mỹ) có thể là một yếu tố nguy cơ, nhưng những nghiên cứu mới hơn thì không ủng hộ ý kiến này.Cách mà HCV gây ra HCC thì chưa được rõ. Không giống như HBV, chất liệu di truyền của HCV thì không xâm nhập trực tiếp vào chất liệu di truyền của tế bào gan. Tuy nhiên, người ta biết rằng xơ gan do bất cứ nguyên nhân nào cũng là một yếu tố nguy cơ dẫn tới HCC. Do đó, người ta còn đang tranh cãi, HCC gây ra xơ gan, là một nguyên nhân không trực tiếp của HCC.Một số trường hợp nhiễm HCV mạn tính lại không dẫn tới HCC. Vì vậy, người ta cho rằng protein lõi của HCV là thủ phạm dẫn tới HCC. Chính protein lõi ( một phần của virus viên gan C) ngăn cản quá trình chết tự nhiên của tế bào hoặc chống lại chức năng của gan ức chế u bình thường (gen P53). Kết quả là những hoạt động làm cho tế bào gan sống mãi và tạo ra những dòng tế bào bất thường có thể dẫn tới ung thư .
Rượu :Uống rượu kéo dài dẫn tới xơ gan là nguyên nhân thường gặp nhất của HCC trên thế giới. Thật ra, hiện nay chúng ta hiểu rằng đa số những trường hợp này cũng bị nhiễm HCV mạn. Những người bị xơ gan do rượu, nếu ngưng uống khoảng 10 năm thì sau đó cũng bị tiến triển tới HCC. Đây là vấn đề không thông thường của việc uống rượu dẫn tới HCC. Sau khi ngưng uống rượu, những tế bào gan cố gắng hồi phục lại bằng cách tái sinh sản. Trong suốt quá trình này sự biến đổi về chất liệu di truyền có thể tạo ra những tế bào ung thư (đột biến), điều này giải thích cho sự xuất hiện của HCC sau khi đã ngưng uống rượu.Những bệnh nhân vẫn uống rượu thường chết do những biến chứng không phải ung thư ví dụ như suy gan do xơ gan. Còn những bệnh nhân xơ gan do rượu, những người mà chết do HCC thường sớm hơn 10 năm so với những người chết do nguyên nhân không phải ung thư. Cuối cùng, giống như những ghi nhận ở trên, việc lạm dụng rượu là một yếu tố nguy cơ tiến triển tới HCC ở những người bị HCV hoặc HBV mạn.
Aflatoxin B1 :Aflatoxin B1 là một hóa chất gây ung thư mạnh đã được biết. Nó được sinh ra từ một loại nấm gọi là Aspergillus flavus, được tìm thấy ở những thực phẩm dự trữ trong môi trường nóng và ẩm ướt. Nấm này được tìm thấy ở những thực phẩm như là đậu phộng, gạo, đậu nành, bắp và lúa mì. Aflatoxin B1 đã gây biến chứng HCC ở miền nam Trung Quốc và vùng hạ sa mạc Sahara Phi Châu. Người ta nghĩ nó gây ra ung thư do tạo ra những thay đổi (đột biến) ở gen p53. Sự đột biến này là do nó chống lại gen ức chế sự sinh ung thư.
Thuốc và hóa chất :Không có loại thuốc nào gây ra HCC cả, nhưng những hormon sinh dục nữ (estrogen) và những hormon gây phát triển cơ bắp có thể dẫn đến adenoma gan. Những khối u lành tính ở gan có thể tiềm tàng trở thành ác tính (ung thư). Vì vậy, ở một vài trường hợp adenoma gan có thể tiến triển thành ung thư gan.Một vài loại hóa chất thường liên quan tới một số ung thư gan. Ví dụ, thorotrast, một loại thuốc cản quang có thể gây ung thư mạch máu ở gan gọi là angiosarcoma gan. Viryl chloride, một hợp chất dùng trong công nghiệp nhựa, cũng có thể gây ra angiosarcoma sau nhiều năm tiếp xúc.
Bệnh ứ sắt :HCC sẽ tiến triển trên 30% ở bệnh nhân bị ứ sắt có tính di truyền. Những bệnh nhân bị bệnh này là yếu tố nguy cơ cao nhất bị xơ gan, không may, khi xơ gan được hình thành thì hiệu quả của việc thảy trừ sắt sẽ không giảm được nguy cơ tiến triển tới HCC.
Xơ gan :Hầu hết những loại xơ gan thường làm gia tăng nguy cơ bị HCC. Thêm vào đó, những tình trạng được mô tả ở trên (viêm gan B, viêm gan C, rượu, và ứ sắt ), thiếu alpha1-antitrypsin, những tình trạng di truyền gây khí phế thủng và xơ gan có thể dẫn tới HCC. Ung thư gan có thể tiến triển mạnh hơn khi kèm với sự gia tăng tyrosin/máu có tính di truyền, đó là tình trạng bất thường về sinh hóa lúc nhỏ mà có thể sớm dẫn tới xơ gan.Có một vài nguyên nhân gây xơ gan ít liên quan tới HCC hơn một số nguyên nhân khác. Ví dụ, HCC hiếm khi thấy ở bệnh nhân xơ gan do bệnh Wilson (bất thường về chuyển hóa đồng) hoặc viêm xơ hóa đường mật nguyên phát (sẹo và hẹp đường ống mật). Người ta cũng nghĩ rằng HCC cũng hiếm khi tìm thấy ở bệnh nhân xơ gan ứ mật nguyên phát (PBC). Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, tần suất HCC ở bệnh nhân PBC được so với những loại khác của xơ gan.
Những triệu chứng của HCC là gì ?
Những triệu chứng khởi đầu của HCC thì rất thay đổi. Ở nhiều nước nơi mà HCC rất thường gặp nhìn chung ung thư phát hiện ra là ở giai đoạn trễ của bệnh rồi. Ở những quốc gia đang phát triển, việc chăm sóc sức khỏe bị hạn chế do đó tần suất bị HCC cao hơn những quốc gia khác. Hơn nữa, những xét nghiệm sàng lọc những bệnh nhân bị nguy cơ tiến triển tới HCC thì không được thực hiện ở những nơi này. Thêm vào đó những bệnh nhân ở vùng này có nhiều yếu tố khác làm cho HCC dễ bị hơn. Mặt khác khối u tiến triển tới giai đoạn trễ thì gây ra những triệu chứng rất nặng. Trái lại, những bệnh nhân ở những vùng có tần suất HCC thấp thường có khối u tiến triển chậm hơn, vì vậy không có triệu chứng trong thời gian dài.Đau bụng là triệu chứng thường gặp của HCC và là dấu hiệu do khối u lớn hoặc do sự xâm lấn của khối u ra xung quanh gan. Hơn nữa, sụt cân không giải thích được hoặc sốt không rõ lý do là những dấu hiệu cảnh báo bị HCC ở bệnh nhân xơ gan. Những triệu chứng này ít thường thấy ở bệnh nhân bị HCC ở Mỹ bởi vì những bệnh nhân này thường được chẩn đoán ở giai đoạn sớm của bệnh. Tuy nhiên, bất cứ khi nào tổng trạng bệnh nhân xơ gan bị suy giảm thì mọi nổ lực là phải tìm ra xem có phải bị HCC không.
Triệu chứng khởi đầu rất thường gặp của HCC ở bệnh nhân xơ gan còn bù (chưa có biến chứng của bệnh gan ) là đột ngột khởi đầu biến - chứng. Ví dụ sự xuất hiện đột ngột của báng bụng ( chứa dịch và sưng căng ổ bụng), vàng da hoặc sụt cân mà không có yếu tố nguyên nhân gơi ý tới khả năng bị HCC. Ung thư có thể xâm lấn và làm tắc tĩnh mạch cửa ( tĩnh mạch lớn dẫn máu tới gan từ ruột và lách ). Khi điều này xảy ra, máu sẽ đi theo con đường ít sức đề kháng hơn như là qua tĩnh mạch thực quản. Điều này sẽ gây ra sự gia tăng áp lực ở những tĩnh mạch này, có thể dẫn tới dãn tĩnh mạch gọi là dãn tĩnh mạch thực quản. Những bệnh nhân này sau đó có nguy cơ bị xuất huyết do vỡ dãn tĩnh mạch vào đường tiêu hóa. Hiếm khi, ung thư cũng tự vỡ và gây chảy máu vào trong khoang bụng và gây ra dịch ổ bụng có máu.Trên thăm khám lâm sàng, thường thấy một cái gan lớn, đôi khi đau. Khối ung thư gan chứa rất nhiều mạch máu. Vì vậy, làm gia tăng số lượng máu tới gan và làm tăng tốc độ dòng máu qua động mạch gan. Sự gia tăng dòng chảy này có thể tạo ra một âm đặc biệt ở gan, có thể nghe được bằng ống nghe ở khoảng 25-50% bệnh nhân bị HCC. Bất cứ dấu hiệu nào của bệnh gan tiến triển (ví dụ báng bụng, vàng da, teo cơ) có nghĩa là bệnh đã diễn tiến theo chiều hướng xấu.
Hiếm khi, bệnh nhân bị HCC có thể vàng da đột ngột do khối u ăn vào đường mật. Vàng da xuất hiện trong trường hợp này là do cả khối u bị bong tróc ra và chảy máu tạo cục máu đông làm tắc nghẽn ống mật.Trong HCC tiến triển, khối u có thể lan từ chỗ ban đầu tới những mô lân cận hoặc theo dòng máu tới bất cứ nơi nào trong cơ thể (di căn xa). Tại chỗ, HCC có thể xâm lấn vào tĩnh mạch dẫn máu tới gan (tĩnh mạch gan). Khối u có thể làm tắc tĩnh mạch này và nó sẽ dẫn tới xung huyết gan. Xung huyết xảy ra là do khối u làm tắc tĩnh mạch, do đó máu không ra khỏi gan được (bình thường máu và gan thông qua tĩnh mạch gan ) và ra khỏi gan vào tĩnh mạch chủ dưới, là một tĩnh mạch lớn nhất dẫn máu về tim. Ở những bệnh nhân Phi Châu, khối u thường làm tắc nghẽn tĩnh mạch chủ dưới đều làm cho gan sưng to và hình thành nên báng bụng. Ở một số bệnh nhân, đã được thấy rõ, khối ung thư có thể xâm lấn vào tĩnh mạch cửa và dẫn tới tĩnh mạch thực quản dãn. Đối với những trường hợp di căn xa, HCC thường di căn tới phổi là do tế bào ung thư đi theo dòng máu tới. Thông thường, bệnh nhân không có triệu chứng của di căn phổi, bệnh chỉ được phát hiện bằng chụp X quang thông thường. Hiếm gặp hơn, trong những trường hợp tiến triển, HCC có thể di căn tới xương và não.
Lịch sử tự nhiên của bệnh đó được biết khá rõ, ngoại trừ bệnh giai đoạn sớm bởi với phần lớn bệnh nhân ở giai đoạn này được điều trị khỏi. Với sự tiến bộ về phương diện phát hiện sớm, chẩn đoán, điều trị hiện nay trong y học hiện đại, thời gian sống thêm của bệnh ung thư gan không cải thiện có ý nghĩa trong hai thập kỷ qua. Trong phần lớn các trường hợp ung thư gan đều phát sinh từ xơ gan; do vậy, tiên lượng của ung thư gan không chỉ phụ thuộc vào giai đoạn bệnh mà còn phụ thuộc vào cả chức năng gan. Hệ thống chia giai đoạn để dự báo tiên lượng bệnh nhân ung thư, phân loại bệnh nhân theo các mức độ tiên lượng khác nhau trong sự sắp đặt thử nghiệm lâm sàng và để hướng dẫn cách điều trị. Tuy nhiên, kiến thức hiện tại về bệnh không đủ để giới thiệu một hệ thống phân giai đoạn được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Hệ thống phân chia giai đoạn kinh điển - giai đoạn Okuda và giai đoạn theo TNM (Tumor-Node-Metastasis) cho thấy các hạn chế quan trọng để phân loại bệnh.
Gần đây, nhiều hệ thống phân loại mới được đề nghị, nhưng chỉ có 3 hệ thống có giá trị:
-Phân chia giai đoạn theo Hội ung thư gan lâm sàng Barcelona (BCLC) kết hợp giai đoạn bệnh với một chiến lược điều trị đặc biệt;
-Thang điểm phân chia giai đoạn hợp nhất Nhật Bản (JIS) được đề nghị và áp dụng ở Nhật Bản, mặt dù nó cần sự phê chuẩn của các hiệp hội ung thư châu Âu;
-Thang điểm ung thư của chương trình gan Ý (CLIP) chủ yếu được đề cập đối với các khối u giai đoạn muộn. Forner và cộng sự đưa ra một phân loại giai đoạn mới, trong đó ung thư gan được chia thành 4 nhóm chính và có liên quan đến điều trị:
+Ở giai đoạn sớm, khối u đơn lẻ, không có triệu chứng, đường kính tối đa 5 cm hoặc có trên 3 nốt, mỗi nốt có đường kính < 3cm;
+Sự phát hiện sớm ung thư biểu mô tế bào gan qua các chương trình sàng lọc, ở giai đoạn này điều trị có hiệu quả (gồm phẫu thuật, ghép gan và cắt qua da);
+Giai đoạn trung bình khi khối u vượt quá giới hạn giai đoạn sớm, nhưng không có triệu chứng ung thư và xâm nhập mạch hoặc lan ra ngoài gan và có thể giảm đau được bằng thủ thuật gây tắc mạch bằng hóa chất;
+Các bệnh nhân có triệu chứng ung thư nhẹ và / hoặc xâm nhập mạch hoặc lan ra ngoài gan được xếp vào giai đoạn muộn. Giai đoạn này điều trị bệnh không hiệu quả và bệnh nhân chỉ có thể được hưởng lợi từ liệu pháp điều trị mới qua thử nghiệm lâm sàng được kiểm soát ngẫu nhiên;
+Giai đoạn cuối là các bệnh nhân có triệu chứng ung thư nghiêm trọng hoặc các khối u lớn và chỉ có thể điều trị triệu chứng.
Khả năng áp dụng các phương pháp điều trị này khác nhau. Không có các thử nghiệm được kiểm soát ngẫu nhiên so sánh với 3 phương pháp điều trị chính. Cắt và ghép gan đạt kết quả tốt nhất ở các bệnh nhân được lựa chọn kỹ (thời gian sống trên 5 năm từ 60-70%) và cạnh tranh như một sự tối ưu nhất với triển vọng điều trị có mục đích. Điều trị qua da mang lại kết quả tốt (thời gian sống 5 năm từ 40-50%) nhưng không thể đạt được tỷ lệ đáp ứng và kết qủa có thể so sánh với điều trị phẫu thuật, ngay cả khi được áp dụng như một sự tối ưu nhất.
Phẫu thuật bằng nhiệt sóng radio mang lại tỷ lệ đáp ứng tốt hơn một ít so với tiêm cồn, nhưng không tốt hơn về thời gian sống thêm. Các phương pháp điều trị còn lại được đánh giá trong khoảng 70 nghiên cứu thử nghiệm được kiểm soát ngẫu nhiên được thực hiện trong 25 năm qua.
Gây tắc mạch bằng hóa chất mang lại kết quả tốt trong thời gian sống thêm ở 2 thử nghiệm lâm sàng được kiểm soát ngẫu nhiên. Các đối tượng lý tưởng đối với sự tối ưu này là các bệnh nhân với chức năng gan được bảo tồn tốt (theo phân loại Child-pugh A) và các khối u đa ổ không có triệu chứng xâm nhập mạch. Các thử nghiệm lâm sàng được kiểm sóat ngẫu nhiên hơn nữa cần để đánh giá các thuốc hóa chất tốt nhất và phương thức điều trị lại lý tưởng. Không có sự tối ưu nhất đối với các bệnh nhân có ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn muộn (xâm nhập mạch máu, lan tràn ra ngoài gan hoặc các triệu chứng liên quan tới ung thư).
Điều trị Doxorubicin toàn thân cung cấp sự đáp ứng một phần ở 10% các trường hợp, không có cải thiện thời gian sống thêm, và các biến chứng liên quan tới điều trị được biết rừ. Nhiều loại điều trị khỏi như liệu pháp miễn dịch, xạ trị trong, Tamoxifen hoặc các thuốc chống oxy hóa khôngcho thấy hiệu quả chống khối u rõ ràng hoặc cải thiện thời gian sống thêm. Các thuốc mới như chất ức chế Tyrosine kinase và các thuốc chống tạo mạch đang được kiểm tra trong các thử nghiệm lâm sàng. Tại hội nghị Hội ung thư lâm sàng Mỹ hàng năm giới thiệu kết quả thử nghiệm lâm sàng được kiểm soát placebo ngẫu nhiên giai đoạn 3 là Serafenib đã chứng minh cải thiện thời gian sống của các bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối. Nghiên cứu này giới thiệu thuốc đầu tiên đó chứng minh lợi điểm sống thêm được cải thiện và đưa ra tiêu chuẩn mới cho sự lựa chọn hàng đầu đối với ung thư gan giai đoạn muộn.