Các bài thuốc y học cổ truyền điều trị bệnh sốt rét:
Hiện nay sốt rét được điều trị bởi thuốc tây y là phần lớn, song trong số những thuốc ấy có một số thuốc có được do tổng hợp có nguồn gốc thực vật. Qua một thời gian dài, những vị thuốc xuất phát/ bắt nguồn từ thực vật đó đã được đúc kết, chắt lọc và chỉnh sửa lại góp phần bổ sung nhiều dẫn liệu trong kho tàng y học cổ truyền dân tộc.
Bài 1: Bài thuốc gồm có cây thường sơn, trên thực tế thì thường sơn có 3 loại (thường sơn tía, thường sơn trắng và thường sơn Nhật Bản). Thường sơn tía thuộc họ tú cầu, có tên khác là áp niệu thảo, ô rô lửa, thục tất (người Tày gọi là Sleng Slảo mè), là một cây nhỏ, cao khoảng 1-2 m, có quả vào tháng 5-6, mọc hoang ở rừng núi, chỗ ẩm mát, ven suối, nó có nhiều ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Hoà Bình, Bắc Cạn.
Bộ phận dùng làm thuốc của cây thường sơn là rể và lá, thu hái quanh năm, rửa sạch, phơi khô cắt nhỏ, tẩm rượu sao, rồi tán bột hoặc làm viên. Ngày uống 6-12 gam, có thể dùng riêng hoặc phối hợp với lá hà thủ ô đỏ phơi khô (10g) và phèn phi (0,01g).
Nếu để điều trị sốt rét: có thể áp dụng bài thuốc sau: lấy rể thường sơn, hạt cau rừng, nga truật 20g, ô mai 20g, trần bì 20g, sa nhân 20g, bán hạ chế 20g, mai ba ba 20g. Tất cả cho vào nồi và 1 lít rượu và 1lít giấm, ngâm trong một ngày đêm. Đun cho cạn hết dung dịch phơi khô, thaí nhỏ, sao giòn, tán và rây bột mịn, rồi trộn với hồ làm viên bằng hạt đậu xanh, sấy khô. Người lớn uống 30-40 viên/ ngày, trẻ em tuỳ tuổi uống 10-20 viên/ngày.
Bài 2: Bài thuốc thường quế chữa sốt rét cách nhật: là thường sơn 80g, tẩm rượu sao vàng, thảo quả 30g, sao cháy vỏ; quế chi 24g phơi khô và hạt cau rừng 20g, thái mỏng phơi khô. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, trộn đều. Người lớn mỗi lần uống 8-12g; trẻ em từ 3-7 tuổi mỗi lần uống 2g, trên 10 tuổi uống 6g. Ngày dùng 2 lần uống với nước ấm. Phụ nữ mang thai không nên dùng các bài thuốc này.
Bài 3:Hạt cau, thường sơn, hạt dành dành, 3 vị trên bằng nhau, tán nhỏ, viên với mật bằng hạt đậu xanh, uống với rượu mỗi lần 50-60 viên, trước khi lên cơn, uống vào bữa ăn: sau khi đã ăn được nửa bửa thì uống tiếp tục, rồi ăn tiếp cho no.Bài thuốc này có tác dụng điều trị sốt rét cơn.
 |
nghệ tươi |
Bài 4: Nhân hạt gấc, vảy tê tê rang phồng đều bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi ngày 12 gam với rượu, bài thuốc có tác dụng chữa sốt rét có bàng hay lách to.
Bài 5: Ô mai bỏ hột 4 quả, thường sơn đồ với dấm, phơi khô tán nhỏ 8 gam, giã nhỏ làm viên, uống với rượu vaò lúc sáng sớm, đón trước khi lên cơn. Bài thuốc này có tác dụng SR cơn (Bách gia trân tàng).
Bài 6: Lá hồng bì tươi 40-50 gam, sắc uống nóng cho ra mồ hôi. Bài thuốc có tác dụng chữa sốt rét cơn.
Bài 7: Lá na một nắm nhỏ (khoảng 20 g tươi), sắc uống hàng ngày, nên uống để chặn trước khi lên cơn sốt. Bài thuốc có tác dụng cắt cơn sốt.
Bài 8: Tỏi củ 6-7 củ, để sống một nửa và nướng chín một nửa, ăn cho hết, nôn hay đại tiện thông thì hết (Nam dược thần hiệu).
Bài 9: Hi thêm tươi một nắm, giả nhỏ chế nước sôi vào, vắt lấy nước cốt uống một chén, uống nhiều lần sẽ làm nôn được đờm dãi. Bài thuốc có tác dụng chữasốt rét lâu ngày, đờm đọng không muốn ăn uống.
Bài 10: Rể cỏ xước 1 nắm, giã nát, sắc uống. Bài thuốc trị sốt rét cơn lâu ngày không khỏi.
Bài 11: Thân và rễ cây ớt sao vàng, sắc uống ngày 2 lần, mỗi lần 100ml.
Bài 12: Lá na 19g, lá chè xanh 19g, lá trường sơn (bỏ gân lá) 4g, lá dành dánh 11g. Các vị dùng tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt uống. ngày uống một lần, mỗi lần một chén uống nước, phụ nữ có thai không được dùng.
Bài 13: Bột riềng khô 20g, bột can khương 80g, bột quế 40g, bột thảo quả 80g, tất cả luyện với hồ tẻ, viên lại bằng hạt ngô hoặc hạt lạc, sấy khô dùng dần. dùng được cho người lớn và trẻ em sốt theo cơn.
Bài 14: Lá hà thủ ô 5g sao vàng, sắc đặc; ngày uống một ấm, có thể uống liên tục được. Dùng cho người bị sốt rét lâu ngày và cơ thể suy yếu.
Bài 15: Thường sơn 40g, tỏi 12g, mai ba ba 60g (sao giấm), bình lang (hạt cau già) 20g, thảo quả 16g, tất cả tán nhỏ làm hoàn. Ngày uống hai lần, mỗi lần 8-12g với 1/3 chén rượu 600 (chén uống nước, uống trước khi lên cơn sốt 1 giờ). Dùng cho người bị sốt rét lâu ngày, lách sưng to.
|
Đinh hương khô |
Bài 16: Nụ đinh hương 40g, phèn đen 200g, hồi hương 120g. dùng nồi và chõ đất, nồi bên dưới, chõ đất bên trên. Các vị thuốc tán nhỏ, cho vào nồi, đổ 2/3 nước. Dùng cám hoặc đất sét nghiền với giấy bản hoặc khoai lang trát vào khe hở giữa nồi và chõ đất. Trong thành chõ và vung chõ dán một số giấy cho dễ thu thuốc ở nồi dưới bốc lên bám lại (theo lối đồ thăng hoa). Đun sôi khoảng 3-4 giờ để chất thuốc bám vào vào giấy dán trong thành chõ và vung chõ. Cạo lấy bột thuốc đó,dùng hồ gạo nếp nấu lỏng hoàn lại thành viên,mỗi viên bằng nửa hạt đậu xanh, sấy khô. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 3-6 viên. 7-12 ngày là một liệu trình. Bài thuốc trên có tác dụng chữa tiệt sốt, lách sưng, đầy hơi.
Các bài thuốc y học cổ truyền điều trị bệnh giun sán:
Bài thuốc liên quan đến quả cau: Cau còn gọi là Bình lang, Tân lang, tên khoa học là Areca catechu L, họ cau Palmae (tên khác là arecacae), khi cau phơi khô có tên gọi là semen arecae. Cau có hai loại là cau rừng (gọi là sơn bình lang) với đặc điểm hạt nhỏ, nhọn, chắc và cau nhà (tên gọi là gia bình lang) có hạt to hơn.
- Thành phần hóa học:Hạt cau non có nhiều tanin (70%) nhưng khi ta luộc chín chỉ còn 15-20%, ngoài ra còn óc chất mỡ (14%) chứa bên trong myristin (1/5), olein (1/4), laurin (1/2), chất đường và muối vô cơ. Hoạt chất chính trong cau là 4 alcaloides: arecolin, erecaidin, guvacin và guvacolin.
- Tác dụng dược lý: Arecolin làm tăng tiết tuyến nước bọt, dichj tá tràng, dịch vị nhưng lại làm co nhỏ đồng tử (dung dịch arecolin bromhydrat 1% làm co nhỏ đồng tử sau khi nhỏ từ 3-5 phút, kéo dài 30 phút đến 2 giờ); làm giảm nhã áp trong bệnh glaucom. Chất arecolin còn làm chậm nhịp tim trừ khi có mặt của canxi, tăng nhu động ruột, kích thích thần kinh ở liều nhỏ, gây liệt thần kinh ở liều lớn. Đối với sán thì nó làm liệt thần kinh sán (đặc biệt trên cơ trơn).
|
| Cây đinh hương |
- Công dụng và liều dùng: Đối với súc vật (chó) liều 4g, đối với người thường phối hợp bột bí ngô (hạt càng già càng tốt). Vào những năm 70 của thế kỷ trước, viện quân y 13 (thuộc quân khu 5) đã nghiên cưú phác đồ tẩy giun sán (sán dây bò, dây lợn) bằng dung dịch hạt cau và hạt bí ngô. Liều lượng cụ thể trên người lớn: Lấy 100g hạt cau già, cho vào 200ml nước sắc còn lại 100ml; cho lòng trắng trứng gà khuấy đều với nước sắc hạt cau đang sôi để khử và dùng vải xô lọc lấy nuớc đúng 100ml nước sắc hạt cau đã khử độc. Phối hợp hạt bí ngô, cụ thể là rang thơm giòn, bóc hết vỏ cứng, giữ lại lớp lụa màng xanh. Giã nhỏ, min 100g rồi để nguyên bột hoặc trộn thêm 100g đường kính hay 100g mật ong.
-Cách uống: Thụt tháo nước sôi để nguội 1.500ml (từ 21 giờ đêm hôm trước khi điều trị) cho bệnh nhân bị nhiễm 1 trong 2 loại sán trên). Nếu cần thụt tháo thêm 1.000ml vào sáng hôm sau. Để bảo đảm kết quả thụt tháo, nên nói bệnh nhân xoa bụng, nằm lâu rồi hãy đại tiện. Từ 7-9giờ cho bệnh nhân ăn nuốt chậm rồi ăn hết hạt bí, nằm nghỉ ngơi 1 giờ, hai tay xoa bụng hoặc đi lại khoan thai, nhẹ nhàng trong nhà. Khoảng 10 giờ cho uống nước sắc hạt cau, nằm nghỉ sau 2 giờ cho bệnh nhân uống 30g natri sulfate để tẩy. Dùng kính lúp có thể thấy đầu sán dây, thân sán to nhỏ dần đến đuôi sán như đầu kim khâu; chiều hoặc tối hôm đó cho bệnh nhân ăn cháo. Tẩy sán dây bằng dung dịch hạt cau, hột bí ngô tuy có phức tạp hơn so với uống thuốc tân dược (Yomesan với liều 0,5g) nhưng rẻ tiền, dễ kiếm lại không có tác dụng phụ. Ngoài tẩy sán, hạt cau còn giúp cho sự tiêu hóa, chữa viêm ruột (ngày từ 0,5-4g hạt cau khô).
Bài thuốc điều trị sán lá gan và các loại sán lá khác:
Theo y học hiện đại, dịch mật giữ một vai trò quan trọng trong hệ vị tràng. Thành phần hoá học của dịch mật bao gồm acid mật (chủ yếu dạng muối), sắc tố mật, các cholesterol, lecithine, mucin, các chất vô cơ như canxi, magne,... Thông thường gan tiết 0,7-1 lít mật /24 giờ và nhu cầu muối mật vào khoảng 8g/ ngày. Về cơ chế sinh lý thông và lợi mật: hiện tượng thông mật là do dưỡng trấp acide tới tá tràng kích thích cơ trơn ở ống mật và ruột. Hiện tượng lợi mật là do muối mật kích thích tế bào gan, gan thải vào mật các acid mạnh có chứa nhóm carbonyl và sulfonyl. Nồng độ các acid mật này cao làm tăng áp suất thẩm thấu sẽ hút nước vào sinh tiết mật. Các thuốc lợi mật, thông mật là những thuốc làm tăng sự thải mật vào tá tràng. Thông mật là làm cho mật thoát ra dễ dàng khỏi túi mật mà không sinh mật, còn lợi là kích thích tạo mật từ tế bào gan. Để trị một số chứng bệnh đường mật, đông y dùng thuốc thanh nhiệt táo thấp, hành khí giải uất, thuốc sơ can lý khí và thuốc lợi thấp đem lại hiệu quả tốt trong điều trị.
Bài 1: Phương thuốc được áp dụng trong y học cổ truyền, song chưa có số liệu cụ thể chứng minh chúng có hiệu quả trong điều trị sán lá gan lớn là dùng hạt bí đỏ sống hoặc rang chín, ăn lúc đói buổi sáng sớm, lần ăn khoảng 1 chén, có thể dùng kèm theo hạt cau và rễ lựu.
Bài 2:Bài thuốc hiện đang được các nhà lương y, y học cổ truyền nghiên cứu ứng dụng điều trị bệnh sán lá gan lớn và và sán lá gan nhỏ, bài thuốc gồm có: sài hồ bắc, hương phụ, sử quân tử, binh lang và uất kim với lượng như sau: 16g-16g-12g-12g-12g, sắc 3 lần, trộng 3 lần nước sắc vào nhau, khi uống cho một thìa cà phê dấm thanh, uống lúc trước và sau 9giờ sáng.
Bài thuốc điều trị giun chui ống mật theo kinh nghiệm dân gian:
Trong bệnh lý giun chui ống mật đã được chẩn đoán xác định thông qua siêu âm và kết quả khám lâm sàng (cần lưu ý các bệnh lý liên quan đến đường mật giới nữ mắc nhiều hơn nam) thì dùng bài thuốc sau:
Lấy 2 lòng trắng trứng gà bỏ vào một các ly và bỏ 2 muỗng đường trắng vào ly, dùng thìa đánh tan hỗn hợp đường-lòng trắng trứng cho đến lúc sủi bọt (thường 10 phút) sau đó cho bênh nhân uống ngay ly hỗn dịch này. Kết quả bệnh nhân sẽ cắt được cơn đau trong vòng 20-30 phút. Lẽ đương nhiên, sau đó chúng ta phải dùng thuốc sổ giun thông thường.
Bài thuốc điều trị bổ trợ trong các bệnh lý gan mật:
Các loại cao mật: bò, lợn, gấu, dê, cá chép. Hoạt chất chính của nó là glycocholat và torocholat, chúng có tác dụng kích thích nhu động ruột, hấp thu ở vùng tá tràng. kích thích rất mạnh sự bài tiết mật, vừa có tác dụng thông mật vừa có tác dụng lợi mật, liều dùng 0,5-1g dưới dạng cao mật.
Artichaut: tác dụng lợi mật do có chất cynarin có vị đắng và mùi thơm trong lá; có tác dụng kích thích sự bài tiết mật. Ngoài ra, dược liệu còn chứa một số chất steroid, magne, kali tác dụng đồng bộ với cynarin làm tăng tác dụng lợi mật. Dùng artichaut dưới dạng lá khô, lá tươi hoặc viên nang dưới hình thức thuốc sắc 5-10% hoặc cao lỏng 2-10g trong một ngày.
Râu ngô: có chứa chất xitosterol, stigmasterol, tinh dầu, saponin. Các vitamin và tinh dầu. Khi uống vào có tác dụng bài tiết mật, dịch mật lỏng hơn và tỷ trọng dịch mật giảm, lượng bilirubin trong máu giảm. có thể hãm hoặc nấu sôi hay chế thành cao lỏng, ngày uống 10-20g. thường dùng 10g râu ngô cắt nhỏ, cho vào 200ml nước đun sôi, để nguội, cứ 3-4 giừo uống1-3 thìa canh.
Nghệ: tác dụng co bóp túi mật, làm thông mật do chất curcumin kích thích sự bài tiết mật của các tế bào gan, làm lợi mật do chất paratolymethyl carbinol. Thường dùng 1-6g/ ngày dưới dạng bột hay sắc.
Nhân trần: thành phần hoá học gồm các glycosid, saponin, kalinitrat, tinh dầu chứa flavonoide, hợp chất polyphenol và cumarin. Nhân trần có tác dụng tăng tiết mật và tăng sự thải động của gan. Ngày dùng4-6g dưới dạng thuốc sắc, siro, thuốc cao hoặc viên.
Điều trị vi nấm
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhiều thầy thuốc đã quan tâm nghiên cứu và sử dụng được nhiều cây thuốc cổ truyền dân tộc để điều trị bệnh nấm da. Y học cổ truyền dân tộc Mexico đã sử dụng lá cây solanum chrysotrichum dưới dạng kem 5% kết quả khỏi 45% sau 4 tuần bôi thuốc. Số còn lại giảm đa số so với lô chứng miconazole. Chất chiết của cấy đã ức chế sự phát triển của nấm trên ống nghiệm với các chủng T.mentagrophytes, T.rubrum, M.gypserum, ở nồng độ ức chế tối thiểu dưới 15mg/ml. Năm 1991, tại Guatemela, các tác giả đã sử dụng dịch chiết của 22 cây ức chế một hoặc nhiều loại nấm: E. floccosum 43,2%, T.mentagrophytes 31,8%. Với các chủng khác tỷ lệ ức chế thấp hơn. Cũng tại Guatemala (1993) tìm ra 26 cây thuốc có tác dụng điều trị nấm da với 4 chủng: Aspergillus flavus, Epidermophyton floccosum, microsporum gypsecum, Trichophyton rubrum. Nồng độ ức chế tối thiểu của các cây cassgrandis casssoccidentalis là 50µg/ml.
Ở các nước nhiệt đới có bệnh nấm ở bàn chân gọi là nấm tinea pedis. Các nấm gây bệnh là trichophyton, bệnh thường khởi phát ở kẻ chân, mặt bên hai ngón chân dày sừng hóa, có thể lan rộng và nứt ra, đỏ, bong vẩy hoặc có mụn nước nhỏ, thậm chí gây dị ứng da. Nhà khoa học E.Ledezma điều trị bệnh nấm trên theo 2 cách: dùng cao chiết từ tỏi và dùng thuốc kinh điển Terbinafin. Sau hai tháng điều trị, 100% khỏi bệnh ở phương pháp 1 và 94% khỏi bệnh ở phương pháp 2. Trong điều trị nên tránh ép củ tỏi và cho tác dụng trực tiếp lên da vì làm như vậy da sẽ bị kích ứng.
Tại Việt Nam, nhiều cây thuốc cũng đã được sử dụng để điều trị nấm da: rễ cây táo rừng, rau răm, muồng trâu, trầu không, chút chít, bạch hạt, ké đầu ngựa. Dầu mù u điều trị nấm da kết quả khỏi 84,32%, đỡ nhiều 5,88%; đỡ ít 3,92%, không giảm 5,8%. Lá muồng trâu điều trị cho 178 bệnh nhân nấm da, kết quả khỏi 96,6%.