Sốt rét vẫn còn là một trong những bệnh xã hội nghiêm trọng, mặc dù trong thời gian qua đã giảm đáng kể về tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong rất nhiều, song sự quay trở lại của sốt rét là có thể vì nhiều yếu tố. Bên cạnh đó, sốt rét cũng là một trong những trở ngại lớn trong phát triển kinh tế tại các quốc gia trong châu Á hiện tại. Một trong những chìa khóa giúp thành công để khống chế bệnh sốt rét là khâu điều trị sốt rét bằng các thuốc sốt rét hiệu lực cao. Việc lựa chọn thuốc sốt rét tối ưu để hội đủ “tính khả thi” là điểm quan trọng nhất. Việc sử dụng các thuốc thuộc nhóm ACTs (Artemisinine-based Combination Therapies) gần đây được Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo sử dụng, nhằm mục đích làm chậm quá trình kháng thuốc của ký sinh trùng, thuốc có tăng hiệu lực cao, rút ngắn số ngày điều trị và giảm tối thiểu độc tính. Một trong những ứng cử viên thuốc sốt rét sáng giá nhất trong nhóm ACTs đó chính là thuốc Artekin, do công ty dược Chong Qing Holley Pharmaceutical Co., Ltd., Trung Quốc giới thiệu.
Artemisinin được chiết xuất từ cây Thanh hao hoa vàng, một vị thuốc y học cỏ truyền của Trung Hoa với hơn 2000 năm lịch sử.Tại Trung Quốc, từ những năm 1980 khi các dẫn suất của artemisinine đã thương mại hóa,thuốc đã được sử dụng điều trị ưu tiên và thay thế các thuốc sốt rét khác tại các vùng sốt rét có Plasmodium falciparum. Các dẫn suất của artemisinine đóng một vai trò quan trọng trong việc làm giảm lan truyền sốt rét và giảm tỷ lệ tử vong do sốt rét đáng kể ở Trung Quốc trong 2 thập niên qua. Hai năm sau, Trung Quốc đã giới thiệu dẫn suất artemisinine tại Việt Nam để điều trị sốt rét, chúng thay thế quinine và một số thuốc sốt rét khác trong phần lớn các vùng có sốt rét tại Việt Nam, với kết quả làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh và tử vong theo từng năm giảm rõ rệt, nhất là trong các định bệnh sốt rét. Giá thành của thuốc có thể chấp nhận được là một trong những lý do tại sao Artemisinine lại đóng vai trò rất lớn trong các ‘cuộc chiến’ phòng chống sốt rét tại Trung Quốc và Việt Nam.
Một thế hệ thuốc sốt rét mới, Artekin (Dihydroartemisinine-piperaquine) đã ra đời. Trong cuộc họp về phát triển thuốc sốt rét vào tháng 11 năm 2001, giáo sư Li Guoqiao, một trong những nhà khám phá ra thuốc artemisinin, trình bày báo cáo của ông ta về thuóc Artekin đã thu hút sự quan tâm của các tác giả và thành viên tham dự tại cuộc họp. Qua 2600 ca bệnh sốt rét không biến chứng do Plasmodium falciparum được điều trị bằng thuốc Artekin trong khu vực Đông Nam Á, phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới tại khu vực Tây Thái Bình Dương, các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành bởi Trung tâm Nghiên cứu lâm sàng bệnh nhiệt đới của đại học Oxford-Wellcome Trust Clinical Research Unit tại Bệnh viện Nhiệt đới, Trung tâm phòng chống sốt rét quốc gia Cambodia, tỷ lệ chữa khỏi trung bình trên 97%. Artekin hội đủ các tiêu chuẩn chuẩn tối ưu của thuốc sốt rét. Hơn thế nữa, liệu trình thuốc với phác đồ 2 ngày với 4 liều là có thể điều trị tận gốc, sử dụng đơn giản và tiện lợi.
Trong nổ lực để tìm kiếm một thuốc sốt rét mới có sẵn và có tính khả thi cấp đến cho toàn bộ bệnh nhân sốt rét đang sống trong vùng lưu hành, đặc biệt các quốc gia châu Phi. Công ty dược phẩm Holleykin, Trung Quốc đã sẵn sàng phối hợp với các nhà chức trách y tế của các quốc gia châu Á, cung cấp Artekin với giá ưu đãi nhất, vì thế Artekin luôn có sẵn tại các bệnh viện Nhà nước, chi phí thấp như thuốc OTC.
Một liệu pháp thuốc phối hợp ACTs tối ưu nhất nên hội đủ các tiêu chuẩn sau đây:
§Hiệu lực cao (High efficacy): với tỷ lệ chữa khỏi sau 28 ngày theo dõi trên 95% trong những vùng sốt rét do Plasmodium falciparum kháng thuốc;
§Tác dụng nhanh (Rapid acting): 95% sạch ký sinh trùng, trung bình < 20 giờ, giảm tỷ lệ chuyển sốt rét ác tính, đặc biệt sốt rét ác tính thể não, tức là giảm tỷ lệ tử vong tối đa. Điều lý tưởng đó chỉ có những dẫn suất của artemisinine do các nhà khoa học Trung Quốc tìm ra.
§Liệu trình điều trị ngắn (Short treatment course): Liệu trình điều trị tối ưu với sự hài lòng của bệnh nhân chỉ có 2 ngày và chỉ uống 1 hoặc 2 lần mỗi ngày;
§Độc tính thấp (Low toxicity): Tần suất xuất hiện các tác dụng phụ khác nhau, song cũng chỉ < 5%;
§Ngăn chặn lan truyền bệnh (Bloking transmission): một mặt ngăn sự hình thành giao bào trong tủy xương và mặt khác làm cho các giao bào khác đang trong dòng máu hệ tuần hoàn mất khả năng lan truyền;
§Giá thành thấp (Low cost): thuốc có tính khả thi cung cấp đủ cho phần đông các bệnh nhân trong vùng sốt rét lưu hành tại các quốc gia đang phát triển
Và chính bản thân thuốc Artekin đã đạt được các tiêu chuẩn như vậy:
§Tác dụng nhanh (Quick acting): Một số nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng với cỡ mẫu lớn tại Việt Nam, Cambodia và Thái Lan. Tất cả đều xác định Artekin có hiệu lực tuyệt vời để làm giảm các triệu chứng lâm sàng trên các bệnh nhân sốt rét. Thời gian cắt sốt là 16-25 giờ và sạch ký sinh trùng là 24-50 giờ, nói chung là 95% sạch ký sinh trùng, đa số < 20 giờ, và đặc biệt dữ liệu tổng kết cho thấy hơn 98% số ký sinh trùng sạch trong vòng 24 giờ; giảm tỷ lệ chuyển sốt rét ác tính, đặc biệt sốt rét ác tính thể não, tức là giảm tỷ lệ tử vong tối đa.
Nhìn vào biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy được hiệu lực diệt ký sinh trùng của Artekin so với các thuốc sốt rét khác như Quinine và Fansimef khác nhau. Chỉ trong 12 giờ mà Artekin dường như giảm được lượng ký sinh trùng đến 90% và chưa đến 24 giờ sau, đã sạch 100%. Trong khi đó thuốc Fansimef (cũng là một thuốc phối hợp) và quinine đến giờ thứ 36 mới sạch ký sinh trùng .
§Hiệu lực cao (High efficacy): Kết quả của một loạt nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng chỉ ra rằng thuốc Artekin có tỷ lệ chữa khỏi cao ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum khoảng 98% theo thời gian theo dõi 28-56 ngày; với tỷ lệ chữa khỏi sau 28 ngày theo dõi trên 95% trong những vùng sốt rét do Plasmodium falciparum kháng thuốc;
§Độc tính thấp (Low toxicity): Tần suất xuất hiện các tác dụng phụ chỉ < 5%; thuốc dung nạp tốt và an toàn cho bệnh nhân, tác dụng phụ không đáng kể (được chứng minh qua các dữ liệu lâm sàng). Khoảng 5% bệnh nhân có buồn nôn, 2% nôn mửa và một số tác dụng phụ khác có thể chán ăn, đau bụng, tiêu chảy, chóng mặt, ngứa và nổi ban đỏ (< 1.5%). Không có dấu hiệu nào thay đổi bất thường về thông số huyết học, sinh hóa và điện tâm đồ sau khi cho uống thuốc;
§Liệu trình điều trị ngắn (Short treatment course): Liệu trình điều trị tối ưu nên khắc phục được tình trạng bỏ liều như phác đồ một số thuốc sốt rét khác dài ngày (Artesunate đơn trị liệu 5-7 ngày hoặc Quinine) đạt với sự hài lòng của bệnh nhân chỉ có 2 ngày và chỉ uống 1 hoặc 2 lần mỗi ngày. Đây là một trong những điểm rất quan trọng trong thiết lập hệ thống chăm sóc bệnh nhân tại y tế cơ sở và chấp nhận cộng đồng;
§Hiệu ứng diệt giao bào (Gametocidal effect): một mặt ngăn sự hình thành giao bào trong tủy xương và mặt khác làm cho các giao bào khác đang trong dòng máu hệ tuần hoàn mất khả năng lan truyền, Dihydroartemisinine là một thành phần trong thuốc Artekin, do đó chúng có thể làm sạch các giao bào non trong tủy xương. Tất cả 100% giao bào bị mất đi tính nhiễm (infectivity) trong vòng 14 ngày sau khi dùng thuốc;
Tỷ lệ chữa khỏi của Artekin so với các phác đồ thuốc khác khác nhau và ưu thế rõ rệt qua bảng dưới đây:
§Vai trò của Artekin trong điều trị sốt rét do Plasmodium vivax (Artekin for vivax malaria treatment): thuốc có cơ chế tác dụng nhanh và hiệu lực cao trong điều trị sốt rét do P.vivax chưa biến chứng. Theo liệu trình theo dõi 28 ngày, tỷ lệ tái phát là 2.7%. tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng thuốc không có hiệu lực trên ký sinh trùng giai đoạn trong gan và vì thế không thể chữa khỏi tận gốc Plasmodium vivax.
Thuốc Artekin thường đóng gói dưới dạng viên bao phim màu xanh lá cây, uống 2 viên 2 lần mỗi ngày trong 2 ngày. Tổng liều người lớn là 8 viên. Liều khác nhau thùy theo nhóm tuổi. Dạng gói viên capsule có màu vàng và chứa đường. Dùng thuốc đường uống, uống với nước ấm 2 lần mỗi ngày trong 2 ngày. Liều cũng khác nhau tùy theo nhóm tuổi.
Tuổi | Liều dùng (viên) |
0 giờ | 6-8 giờ | 24 giờ | 32 giờ |
≥ 16 | 2 | 2 | 2 | 2 |
11-15 | 1.5 | 1.5 | 1.5 | 1.5 |
7-10 | 1 | 1 | 1 | 1 |
Tuổi | Liều dùng (gói) |
0 giờ | 6-8 giờ | 24 giờ | 32 giờ |
5-6 | 2 | 2 | 2 | 2 |
3-4 | 1.5 | 1.5 | 1.5 | 1.5 |
2 | 1 | 1 | 1 | 1 |
1 | 1 | 0.5 | 1 | 0.5 |
Thuộc nên thận trọng đối với phụ nữ mang thai trong 3 tháng đầu, giữ thuốc ở nơi khô ráo, tránh xa tầm tay trẻ em
Vào năm 2004, Tập đoàn Chong Qing Holley Holding, Trung Quốc phối hợp với Sigma-Tau của Ý, Tổ chức Medicines for Malaria Venture (MMV) và đại học Oxfordký kết một văn bản hợp tác quốc tế để cho ra Dihydroartemisininpiperaquine (biệt dược Artekin®), một chế phẩm phối hợp thuốc dihydroartemisinin (dẫn suất artemisinin) và piperaquine. Hai mẻ thuốc, một dành cho người lớn, một cho trẻ em đã được sản xuất cad ra đời bởi Sigma-Tau, cung cấp cho các thử nghiệm lâm sàng. Mục tiêu lâu sàu là chuyển giao toàn bọ dây chuyền sản xuất và hoạt chất và thuốc viên đến Chong Qing Holley, đạt tiêu chuẩn quốc tế GMP.
Kế hoạch các thử nghiệm lâm sàng bao gồm 3 nghiên cứu dược động học và 2 thử nghiệm lâm sàng pha III. Một thử nghiệm lâm sàng pha III hiện đã kết thúc tại Ấn Độ, Lào, Thái Lan với số bệnh nhân 1.050. Thử nghiệm này so sánh với thuốc [artesunate-mefloquine]. Một thử nghiệm lâm sàng pha III thứ 2 với 1.500 bệnh nhân tại 5 trung tâm ở châu Phi, với so sánh thuốc [Arthemether-lumefantrine]. Chương trình thử nghiệm dược động học hoàn thành năm 2006, gồm 1 thử nghiệm lâm sàng trên người tình nguyện, một trên nhóm bệnh nhi trẻ em và một bệnh nhân người lớn bị sốt rét. Tất cả thử nghiệm đuwjc tiến hành với tiêu chuẩn cao nhất của quốc tế là Thực hành lam sàng tốt (GCP_Good Clinical Practice).Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu và nhận xét chuyên môn về thuốc Artekin
[1]. Hiệu lực và tính an toàn của thuốc Dihydroartemisinin-piperaquine (Artekin) trên bệnh nhân nhi Cambodia và người lớn mắc sốt rét chưa biến chứng do P.falciparum.
Nghiên cứu được tiến hành do nhóm tác giả Denis MB, Davis TM, Hewitt S, Incardona S, Nimol K, Fandeur T, Poravuth Y, Lim C, Socheat D thuộc dự án Cộng đồng châu Âu, Trung tâm phòng chống sót rét Cambodia. Độ an toàn và hiệu lực của thuốc phối hơp mớiArtekin (Holleykin Pharmaceuticals), được đánh giá trên 106 bệnh nhân (76 trẻ em và 30 người lớn) bị sốt rét do P.falciparum chưa biến chứng từ 2 vùng sót rét tại Cambodia. Liều được tính theo tuổi, thuóc chỉ định theo các giờ 0, 8, 24 và 32 giờ. Liều tổng của DHA và Piperaquine là 9.1 và 73.9 mg/kg, đối với trẻ em và người lớn là là 6.6 and 52.9 mg/kg. Tất cả bệnh nhân sạch ký sinh trùng trong vòng 72 giờ. Ngoại trừ 1 trẻ chết vào ngày thứ 4. Tỷ lệ chữa khỏi là 96.9% sau 28 ngày theo dõi (98.6% ở trẻ em và 92.3% ở người lớn). Các bệnh nhân tái phát nhận liều điều trị thấp hơn. Tác dụng phụ được báo cáo trên 22 bênh nhân (21%) nhưng không cần can thiệp y tế. Mặc dù Artekin là một thuốc rẻ tiền, đầy hứa hẹn trong điều trị sốt rét, song cũng nên cần có có nhưng nghiên cứu thêm để đánh giá hiệu lực và độ an toàn, đặc biệt trên bệnh nhi.
[2] Artekin: một thuốc sốt rét đầy hứa hẹn và khả thi
Tổ chức phi lợi nhuận Medicines for Malaria Venture (MMV) đã ký kết một văn bản thỏa thuạn để đưa thuốc Artekin như một thuốc sốt rét khả thi vào các quốc gia lưu hành bệnh. “Nếu thử nghiệm thành công, đây sẽ là một trong những thuốc sốt rét nền cho điều trị sốt rét” Các đối tác của các tổ chức là các công ty dược Trung Quốc Chongqing Holley Holding, công ty dược cỷa Ý Sigma-Tau. Qua tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên thuốc Artekin với sốt rét không biến chứng Plasmodium falciparum. Nghiên cứu thực hiện bởi nhóm tác giả Xu Ying, Ou FengZhen, Chen PeiQuan và cộng sự tại Viện y học nhiệt đới, Đại học y học cổ truyền Quảng Châu, Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu trên 60 bệnh nhân chia thành 2 nhóm, mỗi nhóm 30 bệnh nhân. Mỗi nhóm được dùng Artekin hoặc Artekin (T) viên 4 lần mỗi ngày trong 2 ngày. Kết quả cho thấy tỷ lệ khỏi bệnh 96.7%. Thời gian cắt ký sinh trùng trung bình và thời gian cắt sốt trung bình lần lượt là 56.7 ± 16.3 giờ và 20.2 ± 1.3 giờ ở nhóm dùng Artekin và 58.4 ± 18.6 và22.8 ± 1.1 giờ ở nhóm dùng Artekin(T). Tác dụng phụ (buồn nôn và đau dạ dày) nhẹ cả hai nhóm. Vậy, Artekin và Artekin(T) có hiệu lực cao, tác dụng nhanh chống lại ký sinh trùng sốt rét P. falciparum và đặc biệt độc tính rất thấp.
[3] Một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mở với thuốc Artekin® so sánh với[Artesunate-mefloquine] trong điều trị sốt rét do P.falciparum chưa biến chứng
Nghiên cứu được thực hiện do nhóm tác giả Tangpukdee N, Krudsood S, Thanachartwet W,Chalermrut K, Pengruksa C, Srivilairit S, Silachamroon U, Kano S, Looareesuwan S thuộc Khoa bệnh nhiệt đới, đại học Mahidol, Thái Lan và Viện Nghiên cứu y học quốc tế Nhật Bản. Họ tiến hành một nghiên cứu so sánh điều trị chuẩn với các bệnh nhân sốt rét chưa biến chứng (artesunate 4 mg/kg/ngày cùng với mefloquine 8 mg/kg/ngày trong 3 ngày) (Nhóm A) và thuốc phối hợp Dihydroartemisinin 40 mg và piperaquine 320 mg (Artekin®) cho ngày một lần trong 3 ngày (Nhóm B) để xác định tính an toàn, hiệu lực và tính dung nạp. 180 bệnh nhân đựợc lựa chọn ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:2 vào nhóm A:B. Tất cả bệnh nhân đáp ứng lâm sàng ký sinh trùng rất nhanh. Không có sư khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm về thời gian cắt ký sinh trùng và thời gian cắt sốt. Tỷ lệ chữa khỏi cao tương ứng 100% và 99%. Qua đó, cho thấy Artekin có hiệu lực cao và dung nạp tốt như artesunate-mefloquine, thuốc có thể sử dụng thay thế các phác đồ điều trị hiện tại trong sốt rét do P. falciparum kháng thuốc.
[4] Đánh giá sự an toàn của thuốc phối hợp Piperaquine+ Dihydroartemisinin (Artekin®) trong điều trị bệnh nhân sốt rét trẻ em và người lớn tại Cambodia.
Nghiên cứu được tiến hành do nhóm tác giả HarinKarunajeewa, ChivLim, Te-YuHung, Kenneth F.Ilett, Mey BouthDenis, DoungSocheat và Timothy M. E.Davis đang công tác tại Đơn vị nghiên cứu y dược bệnh viện Fremantle (Queen Elizabeth II Medical Centre), Đại học y dượcTây Úc và Trung tâm Phòng chống Sốt rét KST-CT quốc gia, Cambodia. Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá các hiệu ứng của phác đồ thuốc lên huyết động, điện tâm đồ và đường huyết trên bênh nhân sốt rét do P.falciparum chưa biến chứng.
Tổng số 62 bệnh nhân Cambodia (32 trẻ em và 30 người) nhiễm P.falciparum hoặc P.vivax cho dùng Artekin® theo lứa tuổi qua 32 giừo điều trị. Đo huyết áp đo lúc nằm ngửa và huyết áp tư thế đứng thẳng (supine and erect), hình ảnh điện tâm đồ khoảng QT và glucose huyết tương đươc đo trước khi đièu trị, rồi theo dõi khoảng QT trong suốt 4 ngày nằm viện như thể đánh giá tính an toàn và hiệu lực của thuốc. Khoảng QT hiệu chỉnh (QTc) sử dụng công thức Bazett's. Kết quả cho thấy Artekin® dung nạp tốt và bênh nhân đáp ứng với điều trị. Thời gian cắt sốt và cắt ký sinh trùng trung bình là 12 và 9 giờ. Huyết áp tâm thu trước điều trị giảm trung bình 8 ± 6 mmHg và thời điểm 6 giờ đến 72 giờ không có thay đổi đáng kể (p = 0.48). Khoảng QTc trung bình kéo dài có ý nghĩa đến tối đa 11 ms0.5 (CI: 95%; interval 4–18 ms0.5) tương ứng với thông số lúc 24 giờ (p = 0.003). The maximal QTc prolongation observed in any patient was 53 ms0.5. Trung bình về chỉ số glucose giảm 0.4 mmol sau khi hấp thu thuốc trong suốt 48 giờ đầu nhưng không có tình trạng xác định là hạ được huyết (glucose huyết tương < 3.0 mmol l−1). Nói chung, Artekin® là phối hợp thuốc an toàn, hiệu quả cho bênh nhân sốt rét chưa biến chứng cả trẻ em và người lớn. Mặc dù, piperaquine có thời gian bán hủy dài, song không có tác động xấu nào lên chức năng tim mạch và chuyển hóa.
[5] Dược động học của thuốc Dihydroartemisinin trong viên Artekin
Các thông số dược động học của dihydroartemisinin trong viên Artekin đơ liều và liều lặp lại ở trên người tình nguyện khỏe mạnh Trung Quốc được nghiên cứu qua 18 người tình nguyện (9 nam và 9 nữ) uốn Artekin. Mẫu thuốc DHA trong huyết tương được phân tích bằng sắc ký lỏng cao áp (HPLC/ESI/MS). Kết quả cho thấy đường cong nồng độ-thời gian DHA trong huyết tương của liều đơn và liều lặp lại phù hợp với mô hình mở 2 phần. các thong số dược động học trung bình của DHA trong liều đơn là: t (1/2(beta)) = 1.245 +/- 0.495 giờ, C(max) = 243.6 +/- 56.15 microg/l, AUC (0à infinity) = 450 +/- 69 h x microg/l, V(d) = 5.75 +/- 2.2 l/kg và Cl = 3.245 +/- 0.38 l/h/kg, trong khi liều lặp lại thì các thông số là: t (1/2(beta)) = 1.085 +/- 0.298 giờ, AUC(0à infinity) = 444.35 +/- 80.43 h x ng/ml, V(d) = 4.62 +/- 1.128 ml/kg, Cl = 3.0125 +/- 0.875 ml/h/kg. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng DHA trong viên Artekin là hấp thu nhanh, phân bố và đào thải tót trên các đối tượng người tình nguyện khỏe mạnh. Các đặc tính dược động học của DHA trong viên Artekinkhông bị ảnh hưởng bởi giới tính khi dùng liều đơn duy nhất. trong khi đó liều lặp lại thì tích lũy DHA dường như là không.
[6] Dược động học của thuốc Piperaquine sau khi dùng liều duy nhất và liều lặp lại bằng đường uống ở nguwif tình nguyện khỏe mạnh.
Nhóm nghiên cứu gồm Changhui LIU, Rong ZHANG, Xin HONG, Tianlai HUANG, Suiqing MI và Ningsheng WANGthuộc Viện Nghiên cứu dược lâm sàng, Đại học Y học cổ truyền Quảng Châu, Trung Quốc thực hiện. Mục tiêu của nghiên cứu là quan tâm đến đặc điểm dược động họccủa thuốc piperaquine trên người tình nguyện khỏe mạnh. Những người tình nguyện khỏe mạnh uống piperaquine và viên Artekin. Mẫu huyết tương được phân tích piperaquine bằng kỹ thuật HPLC-UV. Kết quả cho thấy đường cong nồng độ-thời gian của liều duy nhất và đa liều piperaquine tương thích với mô hình mở 2 phần.
·Các thông số dược động học của chỉ riêng Piperaquine trong liều đơn:
t1/2(β) = (317.2-/+126.6)h,
AUC0→∞ = (44293-/+12636)h×ng/ml,
Vd = (9490.9-/+2161.9)ml/kg,
Cl = (22.83-/+9.83)ml/h/kg.
·Thông số dược động học của piperaquine trong viên Artekin liều đơn:
t1/2(β) = (302.8-/+180.7)h,
AUC0→∞ = (46419-/+13670)h×ng/ml,
Vd = (10188.6-/+3520.3)ml/kg,
Cl = (25.48-/+10.89)ml/h/kg,
·Trong khi đó viên Artekin đa liều (multiple dose):
t1/2(β) = (298.9-/+101.9)h,
AUC0→∞ = (227692-/+56294)h×ng/ml,
Vd = (5031.5-/+1097.8)ml/kg,
Cl = (11.91-/+3.046)ml/h/kg.
Sự hấp thu và thải trừ của Piperaquine nhanh. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các thông số dược động học của Piperaquine trong viên Artekin giữa liều duy nhất và đa liều (p < 0.001), cho thấy piperaquine có thể tích tụ và có thể có phản ứng phụ của thuốc trên lâm sàng khi điều trị bệnh nhân sốt rét.
Nói chung, hiệu lực và tính an toàn của phác đồ thuốc Artekin quan gần 10 nghiên cứu trên đa trung tâm cho thấy rất cao và rất an toàn, chỉ có 2 ngày điều trị trong liệu trình (giống với Artequick), song quá trình theo dõi thường là chỉ 28 ngày e rằng không đủ để đánh giá thấu đáo do thời gian bán hủy của piperaquine khá dài (phải theo dõi 42 hoặc thậm chí 56 ngày) mới thích hợp và đánh giá thấu đáohơn.
Hiện nay, tại Việt Nam một số công ty dược trong nước cũng đã sản suất được thuốc phối hợp DHA + PP này với các tên biệt dược là Arterakin hoặc CV-Artecan và đã vàđang dùng điều trị sốt rét tại Việt Nam.