Thiếu máu (anemia) bắt từ gốc từ Hy Lạp (Ἀναιμία) có nghĩa là không có máu, không đủ máu, biểu hiện sự sụt giảm hàm lượng hemoglobine (Hb). Vì Hb bình thường mang oxy từ phổi đến các mô, nên khi thiếu máu sẽ dẫn đến thiếu oxy tại các cơ quan và vì con người sống được lệ thuộc vào nhu cầu oxy, nên mức độ thiếu máu sẽ biểu hiện với những triệu chứng khác nhau trên lâm sàng và mặt cận lâm sàng. Ba loại thiếu máu được xác định là thiếu máu do mất máu (xuất huyết, chảy máu hoặc thiếu máu mạn tính), phá hủy tế bào máu (tan máu) và thiếu sự sinh hồng cầu (sinh máu không hiệu quả). Thiếu máu là một trong những rối loạn thường gặp nhất của hệ máu, vài loại thiếu máu do một số bệnh lý sẵn có sinh ra, thiếu máu có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau, dựa vào hình thể hồng cầu, dựa vào cơ chế bệnh sinh,…
Về nguyên do thì thiếu máu có thể do một hay nhiều yếu tố cấu thành, nguyên nhân khá đa dạng với bệnh cảnh nặng, nhẹ khác nhau: thiếu máu do mất máu, chảy máu, tan máu, bất sản hệ sinh máu, rối loạn sinh máu, suy tủy, thiếu vitamine B12, thiếu acide folic, suy thận mạn tính, dùng thuốc ức chế tủy xương, ung thư bạch cầu, một số loại ung thư di căn lan rộng ức chế tủy xương, đa u tủy xương, giảm hấp thu các chất nhất là các chất góp phần sinh máu, tan máu tuổi sơ sinh, bệnh lý hồng cầu hình cầu Minkovski Chauffard, do nhiễm khuẩn nặng, nhiễm đa ký sinh trùng, nhiễm virus, viêm gan, HIV/AIDS, sốt rét, tan máu do truyền máu bất đồng, thiếu máu suy dưỡng,…tuy nhiên trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến một bệnh lý gây thiếu máu do một loài giun tròn có tên khoa học là Necator americanus hoặc Ankylostoma duodenale, rất phổ biến trên toàn cầu và khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam chúng ta.
Tình hình nhiễm giun móc, mỏ trên thế giới và Việt Nam
Trên thế giới
Giun móc, mỏ (gọi chung tên tiếng Anh là hookworm), giun móc có tên là Ancylostoma duodenale và giun mỏ là Necator americanus. Cả hai loại trên đều là loại giun tròn sống trong ruột non của vật chủ, có thể là các động vật có vú như chó, mèo hoặc người. Hai chủng giun móc, mỏ thường gặp nhiễm trên người nhất là là Ancylostoma duodenale và Necator americanus. Necator americanus chủ yếu gặp ở châu Mỹ, Sub-Saharan Africa, Đông Nam Á, Trung Quốc và Indonesia, trong khi A. duodenale lại gặp chủ yếu ở Trung Đông, Bắc Mỹ, Ấn Độ và phía tây Âu. Số người nhiễm giun móc, mỏ hằng năm lên đến 800 triệu người trên toàn cầu.
Giun móc/ mỏ là một trong những loại giun tròn truyền qua đất, khá phổ biến ở các nước có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ước tính trên thế giới có khoảng 1.5 tỷngười bị nhiễm giun móc và 65.000 người chết do giun móc/ giun mỏ hàng năm. Phần lớn các người nhiễm giun móc/ mỏ đều không có triệu chứng, do vậy đến khi nhiễm nặng thì mức độ tác hại quá lớn. Một số tác giả và qua nhiều điều tra đa vùng trên thế giới cho biết nhiễm giun móc/ mở thường đi cùng với nhiễm giun lươn Strongyloides stercoralis
Tại Việt Nam
  !important; Qua các kết quả điều tra cho biết tỷ lệ nhiễm giun móc ở Việt Nam từ 3-80% tùy theo tính chất nghề nghiệp, tập quán canh tác, điều kiện vệ sinh và đặc tính thỗ nhưỡng của từng vùng khác nhau. Miền Bắc với tỷ lệ nhiễm ở các vùng đồng bằng từ 30-60%, trong khi đó ở các vùng đồng bằng ngập nước thì tỷ lệ nhiễm chỉ 3-18%. Vùng ven biển tỷ lệ nhiễm cao nhất (67%) rồi đến vùng trung du (64%) và vùng núi (61%). Trong khi ở miền Nam và khu vực Nam Trung bộ có tỷ lệ nhiễm ở vùng đồng bằng là 52%, ven biển 68%, trung du 61% và Cao nguyên là 47%.
Cường độ nhiễm giun móc đều là mức độ nhẹ: ở các vùng điều tra số trứng trung bình trên 1 gam phân (epg) là < 1.000 trứng/ gam;
Nhiễm giun móc liên quan mật thiết đến tuổi (tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm tăng dần theo tuổi) và dường như có liên quan thuận với tình trạng nhiễm giun lươn Strongyloides stercoralis của vùng đó;
Nhiễm giun móc phối hợp với các loại giun khác chiếm tỷ lệ từ 50-70% tổng số người nhiễm, cho nên tính nghiêm trọng rất lớn. Tình trạng tái nhiễm thấp hơn rất nhiều so với tái nhiễm giun đũa và giun tóc (4.4% vs 68% và 51% sau điều trị 6 tháng bằng thuốc albendazole).
Tại Việt Nam, bệnh chủ yếu do giun mỏ (chiếm 95%), còn giun móc chỉ chiếm 5% trong số các đối tượng nhiễm.
Ảnh hưởng của bệnh giun móc, mỏ trên cộng đồng
Hầu hết những cá nhân nhiễm giun móc là người không có biểu hiện triệu chứng. Nhìn chung, nếu lượng giun nhiều thì thường đi kèm với suy dinh dưỡng (hấp thu không đủ lượng protein và chất sắt) dẫn đến thiếu máu suy dưỡng. Bệnh biểu hiện liên quan đến giun tròn Ankylostoma duodenalis cư trú 1/3-2/3 chiều dài đoạn ruột non ở những người công nhân làm việc tại Ai Cập (Theodor Bilharz và Griesinger.,1854). Triệu chứng bệnh liên quan đến viêm ruột do giun bám và hút máu (buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy từng đợt và thiếu máu tiến triển và bệnh kéo dài, chán ăn, xanh xao, táo bón sau đi lỏng, lạnh chi, suy nhược cơ thể, yếu, thở nhanh. Nếu nặng có thể dẫn đến tử vong trong bối cảnh lỵ, xuất huyết, phù nề và suy hô hấp.
Xét nghiệm máu trong giai đoạn nhiễm sớm cho thấy tăng lượng bạch cầu eosin, nhất là khi giun ký sinh bên trong mô, nồng độ Hb trong máu giảm xuống đáng kể trong một số ca nhiễm nặng, bệnh kéo dài. Ngược lại, hầu hết các ca nhiễm giun đường ruột nhiễm lượng giun lớn thường gặp trên đối tượng bệnh nhân là trẻ em là chủ yếu, tỷ lệ và cường độ nhiễm giun móc có thể cao ở phụ nữ so với nam giới. nhiễm loại giun này có xu hướng liên quan đến nghề nghiệp, vì thế những công nhân làm việc hầm mỏ, khoáng và nhóm người khác. Tuy nhiên, ở hầu hết các vùng lưu hành bệnh giun móc, phụ nữ thường bị nhiễm nặng nhất và thiếu máu nặng, bởi vì nhu cầu cần thiết về sắt hoặc mất máu có tính chất sinh lý ở họ cao hơn (kinh nguyệt, mang thai). Tại một số cộng đồng, phụ nữ có nghề nghiệp thuận lợi cho nhiễm bệnh giun móc nhiều hơn (trồng cao su, cà phế, tiêu, đóng hạt latex, làm việc chân đất, không sử dụng hố xí hợp vệ sinh khi ở các điều kiện như thế.
Giun móc, mỏ nhỏ hơn rất nhiều so với các loại giun tròn lớn hơn như giun đũa Ascaris lumbricoides, biến chứng do chúng di chuyển đến các mô và tắc nghẽn cơ học cũng ít hơn so với một số oại giun tròn khác. Nguy cơ nghiêm trọng nhất do nhiễm giun móc ở giun móc là gây nên thiếu máu, thứ đến là thiếu sắt và protein trong ruột. Trên đầu giun có vòng móc sắc bám chắc vào niêm mạc ruột non (hỗng tràng, hồi tràng và tá tràng là chủ yếu), khi bám vào chúng còn tiết ra chất ức chế quá trình đông máu, nên máu vẫn tiếp tục chảy rỉ rả liên tục và cứ thế giun hút máu một cách “khao khát” và làm tổn thương niêm mạc nghiêm trọng. Tuy nhiên, lượng máu mà chúng ta có thể thấy trong phân rất ít, chỉ là máu ẩn.
- Bệnh giun móc dẫn đến nhiều bệnh ở trẻ và bà mẹ mang thai ở các quốc gia đang phát triển trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Bệnh giun móc mỏ ở trẻ em tương đối cao vì rất nhạy cảm với lứa tuổi này, bệnh dẫn đến hậu quả chậm phát triển trí tuệ, chậm phát triển trong tử cung, sinh non, và cân nặng trẻ sinh ra thấp trong số những trẻ sinh ra từ các bà mẹ nhiễm giun móc nặng.
- Nhiễm giun móc hiếm khi tử vong, nhưng thiếu máu nặng có ý nghĩa nghiêm trọng, đặc biệt khi có bệnh lý đi kèm (suy tim, phổi tắc nghẽn,…). Khi bệnh ở giai đoạn ấu trùng: khi đó ấu trùng có thể gây viêm da tại chỗ những nơi mà ấu trùng xâm nhập hoặc viêm phổi dị ứng khi ấu trùng chu du qua phổi (hội chứng Loffler), nếu bệnh ở giai đoạn giun trưởng thành, cơ thể con người có thể biểu hiện:
+ Gây kích thích: do những chất tiết của giun hoặc những hoạt động của giun thúc vào thành ruột gây những hiệu ứng hóa học và kích thích cơ học tại chỗ khiến cho thành ruột bị tổn thương, gây buồn nôn, nôn, đau bụng, đại tiện phân lỏng, có thể phân lỏng kèm theo máu;
+ Tổn thương đường ruột: thành ruột bị viêm và chảy máu nếu nhiễm về lâu dài sẽ hình thành các nốt sùi và để lại sẹo, viêm loét hành tá tràng do quá trình kích loét liên tục;;
+ Giun móc/ mỏ hút máu gây thiếu máu và tạo ra tình trạng chảy máu rỉ rả liên tục tại nơi giun ký sinh (một con giun móc hút và làm chảy máu khoảng 0.04-0.16ml/ mỗi ngày), dẫn đến tình trạng thiếu máu ngày một trầm trọng và liên tục với các biểu hiện như tăng nhịp tim, hồi hộp, đánh trống ngực, chóng mặt, hoa mắt, xanh xao, da niêm mạc nhợt nhạt, suy tim;
+ Gây rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ, trẻ em chậm lớn, còi cọc, khó nhớ và chóng quên làm sa sút học tập lâu ngày dẫn đến suy dinh dưỡng và thậm chí gây phù toàn thân.
Đánh giá mức độ toàn cầu nhiễm giun móc, mỏ và thiếu máu thời kỳ thai nghén
Nhiễm giun móc, mỏ và thai nghén
Nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề thiếu máu do giun móc, mỏ trong thời kỳ mang thai phụ thuộc vào sự nắm bắt về số lượng ca bệnh. Qua phân tích cho thấy cách đưa ra đánh giá một số lượng lớn phụ nữ vừa có thai, vừa bị nhiễm giun móc ở mức độ có thể gây bệnh còn nhiều vấn đề tranh cãi, nhất là nơi có tỷ lệ đồng nhiễm đa loài ký sinh trùng thì mức độ đánh giá lại càng khó khăn hơn.
Các số liệu sinh sản cho biết có tới 24 triệu phụ nữ vùng cận Sahara mang thai năm 1990, tỷ lệ nhiễm giun móc lứa tuổi 15-45 tuổi là 32%, tức là 7,5-7,8 triệu phụ nữ bị nhiễm giun móckhi đang mang thai. Trong tổng số 7,5 triệu phụ nữ có thai ở cận Sahara có nguy cơ thì khoảng 1 triệu người nhiễm ở ngưỡng 40 con giun. Do mối liên quan không tuyến tính giữa số lượng giun và nguy cơ mắc bệnh, ngưỡng gây bệnh có thể thay đổi từ 50-200 giun mà không có sự thay đổi số dân trong diện nguy cơ bị bệnh nếu số dân lớn hơn 100.000 người. Mặc dù hiện chưa có số liệu đối với nhóm phụ nữ mang thai, nhưng người ta thấy rằng nhiễm giun móc nhẹ vẫn ảnh hưởng xấu đến sự tăng trưởng, thậm chí cả những trẻ em lớn tuổi và cũng làm giảm sự ngon miệng, giảm thể lực, mức độ hoạt động và nhận thức. Do đó, dù bệnh không có các biểu hiện lâm sàng thì nhiễm đến 40 con giun vẫn để lại các hậu quả xấu, đặc biệt ở các cộng đồng dân cư đang bị thiếu dinh dưỡng nặng ở châu Phi, châu Mỹ, châu Á. Theo số liệu đánh giá trong khu vực và tổng số trường hợp nhiễm giun móc và mang thai năm 1990, tổng số là 44 triệu, những tác động về mặt dinh dưỡng bào gồm giảm hấp thu thức ăn, mất chất dinh dưỡng; giảm khả năng lao động, tỷ lệ tử vong mẹ và thai nhi, phát triển trí tuệ chậm, tăng thời gian nghỉ học ở học sinh, tăng tần suất mắc bệnh khácà nghèo đói suy dinh dưỡng và nhiễm bệnh.
Riêng đối với phụ nữ mang thai có thiếu máu sẽ dẫn đến một số hậu quả mà các chuyên gia cho rằng thiếu máu được xem là nguyên nhân gây ra 20% số tử vong ở mẹ và góp phần vào nhiều tử vong khác, họ đã nhấn mạnh rằng để giảm tối đa các hậu quả này, phải chú ý đặc biệt việc phòng thiếu máu nặng, tức là thiếu máu ở mức Hb < 70g/l:
[1] Giai đoạn 1: thiếu máu sẽ phục hồi, chỉ khó thở khi gắng sức;
[2] Giai đoạn 2: thiếu máu không được hồi phục, khó thở cả khi nghỉ ngơi;
[3] Giai đoạn 3: suy tim xung huyết
Phụ nữ mang thai và thiếu máu do giun móc, mỏ
Nhiều phụ nữ ở các quốc gia đang phát triển, phần lớn cuộc đời của họ là mang thai và cho con bú, các công việc đó có nhu cầu đáng kể về sắt. Mỗi lần mang thai đòi hỏi chuyển tải khoảng 300mg sắt trong 3 tháng cuối thời kỳ thai, người mẹ cần bổ sung thêm 500mg sắt để thích ứng với lượng hồng cầu tăng lên cần thiết cho sự mang thai có kết quả và mỗi ngày nuôi con bú sẽ phải chuyển tải từ mẹ sang con khoảng 0.75mg sắt.
Những phụ nữ đang độ tuổi sinh sản mà không mang thai sẽ mất khoảng 35ml máu (trung bình từ 23-54ml) chứa chừng 15.5mg sắt khi có kinh nguyệt; mất sắt do kinh nguyệt sẽ không diễn ra lúc mang thai và cho con bú thời gian đầu, tuy vậy mức độ diễn biến về sự chuyển hóa sắt này chưa được đánh giá đầy đủ. Hơn nữa, phụ nữ không chỉ làm mẹ mà còn tham gia một số công việc khác trong gia đình và ngoài xã hội, họ cũng có nguy cơ nhiễm sốt rét, sán máng, hoặc giun móc
Bệnh nguyên của thiếu máu có thiếu sắt do nhiều yếu tố ở phụ nữ
Sắt là một thành phần quan trọng của huyết sắc tố và do đó, sự thiếu hụt sắt kéo dài gây rối loạn quá trình sinh hồng cầu và dẫn đến thiếu máu. Phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ (15-50 tuổi). có nguy cơ cao bị thiếu sắt do tình trạng mất máu kéo dài qua kinh nguyệt và nhiều nguyên nhân khác. Hầu hết phụ nữ trên thế giới bước vào thời kỳ thai nghén mà không có đủ dự trữ sắt trong cơ thể hoặc thậm chí thiếu sắt thật sự, Tổ chức Y tế thế giới ước tính 43% phụ nữ trong độ tuổi 15-50 tuổi ở các nước đang phát triển có thiếu máu, trong thời kỳ mang thai tỷ lệ này tăng lên 56% và 80% của các ca thiếu máu này có nguyên do là thiếu sắt. Thiếu máu trong thời gian mang thai có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai, gây giảm trọng lượng thai. Để đáp ứng nhu cầu sắt trong thời kỳ mang thai, cơ thể người phụ nữ phải có dự trữ sắt ít nhất 300mg trước khi mang thai. Việc bổ sung sắt trước khi mang thai giúp cải thiện dự trữ sắt, giảm đáng kể nhu cầu bổ sung sắt trong thời kỳ mang thai và đem lại kết quả tốt cho thai nghén bình thường.
Phương thức điều trị thiếu máu do giun móc, mỏ?
1. Điều trị thuốc đặc hiệu : dùng liều duy nhất với thuốc có hiệu lực cao, thuốc điều trị vừa có tác động trên giun móc và các loại giun khác, thuốc rẻ tiền và ít độc tính, song song bổ sung chất sắt.
  !important; - Các phương thức điều trị:
+ Điều trị cá thể
+ Điều trị hàng loạt: bao gồm điều trị chọn lọc gồm điều trị chọn lọc và điều trị toàn diện; nên điều trịđịnh kỳ 4-6 tháng/ lần trong nhiều năm liền vì trong vùng lưu hành bệnh.
  !important; - Thuốc điều trị: gồm nhóm Benzimidazole (mebendazole và albendazole) và nhóm Pyrimidine (pyrantel pamoate, oxantel), trong đó mỗi nhóm có cơ chế tác dụng trên giun theo con đường khác nhau:
+ Các thuốc nhóm Benzimidazole (MEB và ALB) sẽ ức chế hấp thu glucose của giun và giảm glycogen cũng như giảm ATP vì cần cho hoạt động sống của giun.
+ Các thuốc nhóm Pyrimidine (PYR, OXT) có tác dụng ức chế dẫn truyền thần kinh cơ dẫn đến liệt cơ của giun.
- Các tác dụng phụ của thuốc như chóng mặt, nhức đầu nhẹ, rối loạn tiêu hóa, buồn nôn; tuy nhiên, các triệu chứng này thường nhẹ và thoáng qua rồi chấm dứt khi hết liệu trình điều trị.
- Phác đồ điều trị:
·  !important; Với thuốc albendazole (biệt dược Zentel, Alzental, Vidoca, Gentax,…)
+ Nếu nhiễm nhẹ: dùng liều duy nhất 400mg cho mọi người từ ≥ 2 tuổi;
+ Nếu nhiễm nặng: liều 400mg/ngày x 3 ngày liên tiếp.
·  !important; Với thuốc mebendazole (biệt dược Vermox, Fugacar, Winvom, Fubenzole,…)
+ Nếu nhiễm nhẹ: liều duy nhất 500mg cho mọi người từ ≥ 2 tuổi;
+ Nếu nhiễm nặng: liều 500mg/ngày x 3 ngày liên tiếp
·  !important; Với thuốc pyrantel pamoate (biệt dược Combantrin, Embovine, Helmex,…)
+ Nếu nhiễm nhẹ: dùng liều duy nhất 10mg/kg/ngày cho mọi người từ ≥ 2 tuổi;
+ Nếu nhiễm nặng: liều 10mg/kg/ngày x 3 ngày liên tiếp
·  !important; Nhiễm giun đũa phối hợp nhiễm giun móc/ mỏ
+ Albendazole (400mg, liều duy nhất hoặc 400mg/ngày x 3 ngày tùy mức độ nhiễm;
+ Mebendazole (500mg, liều duy nhất hoặc 500mg/ngày x 3 ngày tùy mức độ nhiễm;
+ Pyrantel pamoate 10mg/kg cân nặng hoặc 10mg/kg x 3 ngày tùy mức độ nhiễm.
Nếu cần thiết nên điều trị định kỳ 2 lần/ năm trong nhiều năm liền tùy thuộc mức độ nhiễm của vùng đó. Một số chống chỉ định của các nhóm thuốc này khi điều trị:
· Với nhóm Benzimidazole:
+ Trẻ dưới 2 tuổi, phụ nữ có thai 3 tháng đầu hoặc đang cho con bú;
+ Người có tiền sử mẩn cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc nhóm Benzimidazole;
+ Người có tiền sử nhiễm độc tủy xương và thận trọng sử dụng cho người suy gan thận.
·  !important; Với nhóm Pyrimidine:
+ Nhìn chung thuốc có độ an toàn và hiệu quả cao khi được kê đơn bởi các bác sĩ chuyên khoa và đúng chỉ định;
+ Không nên dùng Pyrantel pamoate cho những người nhạy cảm hoặc quá mẫn cảm với các thành phần của thuốc;
+ Pyrantel pamoate dung nạp rất tốt, song nên tránh trong các ca nhiễm nặng mà nên chuyển sang thuốc thay thế;
+ Một tỷ lệ rất nhỏ bệnh nhân dùng thuốc sẽ buồn nôn hoặc nôn sau khi uống thuốc.
2. Điều trị bổ sung chất sắt và acid folic
Sắt là một thành phần quan trọng của huyết sắc tố và do đó sự thiếu hụt sắt kéo dài gây rối loạn quá trình sinh hồng cầu và dẫn đến thiếu máu. Phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ (15-50 tuổi). có nguy cơ cao bị thiếu sắt do tình trạng mất máu kéo dài qua kinh nguyệt và nhiều nguyên nhân khác. Hầu hết phụ nữ trên thế giới bước vào thời kỳ thai nghén mà không có đủ dự trữ sắt trong cơ thể hoặc thậm chí thiếu sắt thật sự, Tổ chức y tế thế giới ước tính 43% phụ nữ trong độ tuổi15-50 tuổi ở các nước đang phát triển có thiếu máu, trong thời kỳ mang thai tỷ lệ này tăng lên 56% và 80% của các ca thiếu máu này có nguyên do là thiếu sắt. Thiếu máu trong thời gian mang thai có thể ảnh hưởng đến sựu phát triển của thai, gây giảm trọng lượng thai. Để đáp ứng nhu cầu sắt trong thoèi kỳ mang thai, cơ thể người phụ nữ phải có dự trữ sắt ít nhất 300mg trước khi mang thai. Việc bổ sung sắt trước khi mang thai giúp cải thiện dự trữ sắt, giảm đáng kể nhu cầu bổ sung sắt trong thời kỳ mang thai và đem lại kết quả tốt cho thai ngén bình thường.
- Dùng thực phẩm có bổ sung sắt: ở một số nước công nghiệp phát triển, nhiều loại thực phẩm như đường, nước, chất sốt cá, patê,…được bổ sung một hàm lượng sắt nhất định. Khi bữa ăn thông thường không cung cấp đủ lượng sắt yêu cầu, việc dùng kết hợp các loại thực phẩm này sẽ giúp chủ động được lượng sắt đưa vào cơ thể. Các nghiên cứu cho thấy, dự trữ sắt được cải thiện và tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt giảm rõ rệt sau 6 tháng sử dụng các loại thực phẩm này ở các phụ nữ trước khi mang thai, kể cả những người có nhiễm giun móc, mỏ. Tuy nhiên ở những nơi có điều kiện kinh tế xã hội kém phát triển, sẽ rất khó tìm được các loại thực phẩm này, trong khi dân cư tại các khu vực đó lại thuộc nhóm có nguy cơ cao thiếu máu thiếu sắt;
- Sử dụng các chế phẩm có chứa sắt: có thể được sử dụng để bổ sung dự phòng theo 2 phương pháp hoặc sử dụng mỗi tuần một lần trong nhiều tháng hoặc bổ sung hàng ngày, từng đợt kéo dài khoảng 2-4 tháng. Một số nghiên cứu trên những phụ nữ không mang thai cho thấy, việc bổ sung sắt phối hợp với bổ sung acide folic hàng tuần giúp cải thiện dự trữ sắt, giảm đáng kể nguy cơ thiếu máu do thiếu sắt trong thời kỳ mang thai cũng như tác dụng phụ gây ra do các chế phẩm của sắt, đặc biệt là khi sử dụng kéo dài. Nói chung tình trạng thiếu máu sẽ cải thiện sau 3 tháng và dự trữ sắt được cải thiện sau 7 tháng sau khi áp dụng phương pháp này với liều 60mg sắt và 250mcg acide folic.
- Tác dụng dự phòng và tính an toàn của việc bổ sung sắt hàng tuần đều cao hơn so với việc sử dụng sắt hàng ngày. Phương thức thứ nhất: các tác dụng phụ của sắt chỉ xảy ra mỗi tuần một lần thay vì xảy ra hàng ngày như trong phương thức thứ 2. Ngoài ra, nguy cơ gây thừa sắt và tăng nồng độ huyết sắt tố trong máu của phương pháp thứ hai cũng thấp hơn đáng kể so với phuơng thức thứ nhất. Do có khả năng bổ sung nhanh một số lượng lớn sắt nên phương thức bổ sung sắt hàng ngày thường được sử dụng với mục đích điều trị thiếu máu thiếu sắt hơn là dự phòng thiếu sắt, trong khi phương thức thứ nhất có tác dụng dự phòng là chủ yếu. Trong trường hợp bổ sung sắt hàng ngày, sắt nên được dùng ở liều thấp để hạn chế các tác dụng phụ và bảo đảm lượng sắt đưa vào cơ thể được hấp thu triệt để.
- Các muối sắt hay được sử dụng như muối sắt sulfate, sắt gluconate thường được bào chế dưới dạng viên sắt hoặc là một thành phần trong các chế phẩm bổ sung vitamin và khoáng chất. Các tác dụng phụ có thể gặp do sắt gây ra là kích ứng dạ dày, táo bón, rối loạn vị giác và nhuộm phân đen, tuy nhiên các tác dụng phụ này ít xảy ra hơn khi sử dụng các dung dịch đa vitamine và khoáng chất có chứa sắt.
3. Việc dùng quá liều sắt có hại hay không?
Những trường hợp uống nhầm một lượng lớn sắt, có thể gây ra các biểu hiện ngộ độc sắt, nhưng điều này hiếm khi xảy ra. Các trường hợp bù sắt vượt quá nhu cầu cần thiết của cơ thể trước khi mang thai có thể gây tăng nồng độ sắt tự do trong máu, thừa dự trữ sắt và tăng nồng độ huyết sắc tố trong máu, từ đó gây ra nhiều ảnh hưởng không tốt cho phát triển của thai nhi. Tình trạng thừa sắt có thể gây cản trở phản ứng sinh máu bình thường của thai nhi. Các nghiên cứu ở Phần Lan và Scotland còn cho thấy, bổ sung thừa sắt ở các bà mẹ trước khi mang thai có thể gây tăng tỷ lệ tử vong ở những đứa con của họ trong những năm đầu đời. Bên cạnh đó, việc tăng nồng độ huyết sắc tố trong máu có thể gây tăng tỷ lệ đẻ non hoặc trẻ thiếu cân, nguy cơ này thậm chí còn lớn hơn so với nguy cơ thiếu máu. Như vậy, để đảm bảo hiệu quả và tính an toàn của việc bổ sung sắt dự phòng, các xét nghiệm đánh giá dự trữ sắt trong cơ thể (đo nồng độ ferritin, transferin) nên được tiến hành định kỳ trong quá trình điều trị.
Một điểm cần lưu ý là khi điều trị cho bệnh nhân bằng viên sắt thì nên cho kèm vitamine C, bởi lẽ sắt viên đưa vào cơ thể là Fe++ khi vào cơ thể phải chuyển thành Fe+++ thì mới có khả năng hấp thu tại tá tràng, phản ứng chuyển Fe++à Fe+++ (diễn ra trong ruột non) này phải có sựu xúc tác của vitamine C, cho nên khi dùng viên sắt nên cho kèm vitamine C. Hiện nay, bổ sung sắt phối hợp với acide folic hàng tuần là phương thức dự phòng thiếu sắt do WHO khuyến cáo sử dụng rộng rãi ở những phụ nữ chuẩn bị mang thai.
Tăng cường các thực phẩm giàu sắt: sắt trong thực phẩm được chứa chủ yếu ở các lọai rau (rau ngót, rau muống), thịt nạc (thịt bò, thịt trâu) và cá biển, trong đó loại sắt từ thịt được hấp thu tốt hơn từ rau 2-3 lần, sự có mặt thành phần sắt trong thịt cũng tăng cường sự hấp thu các loại sắt trong rau và ngược lại.
4. Bổ sung acid folic
Acid folic giúp cho hàng trăm quá trình trao đổi chất và quá trình sinh học trong cơ thể con người hoạt động dễ dàng hơn, thiếu acid folic có thể gặp không ít rắc rối, thậm chí mắc các căn bệnh nghiêm trọng (một số triệu chứng như bệnh huyết áp, stress, suy nhược cơ thể, mất ngủ, hay quên, bệnh liên quan đến lưỡi, bệnh đường ruột, bệnh lý hệ thần kinh,…), acide folic đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành, phục hồi và góp phần bảo vệ DNA. Ngoài ra, acide folic còn có một số tác dụng lên các cơ quan khác:
· Acide folic với cơ quan tim mạch: các nhà khoa học đã chứng minh nồng độ acide folic trong máu thấp có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim ở con người, thiếu acid folic có liên quan mật thiết đến sự gia tăng nồng độ homocysteine trong máu (một trong những chất gây ra bệnh tim mạch). Hàm lượng homocysteine trong máu cao thường dẫn đến sự phá hủy thành mạch. Song, acid folic có thể giúp kiểm soát dễ dàng vấn đề này do acid folic có thể làm giảm homocysteine trong máu;
· Acide folic và liên quan đến sức khỏe thai nhi: mỗi năm trên thế giới có hàng nghàn thai nhi bị khuyết tật hoặc bệnh về não, thần kinh do thiếu acide folic, chủ yếu do thai nhi thiếu acide folic trong vòng 3 tháng đầu, người mẹ khi mang thai được khuyến cáo là nên hấp thụ khoảng 400-800mcg acide folic mỗi ngày để đảm bảo cho sự phát triển não bộ bình thường của trẻ. Lượng acide folic chủ yếu được hấp thu qua thức ăn như đậu, rau xanh, trái cây, bánh mì và ngũ cốc;
· Acide folic giúp tăng hệ miễn dịch: đối với hệ miễn dịch của con người, acide folic có một vai trò vô cùng quan trọng bởi nó giúp tăng cường quá trình sinh sản lượngbạch cầu trong máu, giúp cơ thể bảo vệ chống lại vi khuẩn;
· Acide folic giúp mang lại sức khỏe dẻo dai: vì chúng chính là chìa khóa giúp duy trì sự cân bằng các phản ứng hóa học trong não bộ của con người và tăng cường quá trình trao đổi chất, dinh dưỡng giữa các tế bào não. Nó cũng giúp duy trì và cải thiện đáng kể quá trình truyền tín hiệu giữa các nơ ron thần kinh trong não, đồng thời giúp hạn chế những áp lực tiêu cực đối với não bộ do sự tăng lên của nồng độ SAMe (S-adenosyl methionine). Do vậy, giúp cho con người làm việc và hoạt động được dẻo dai hơn;
· Acide folic và tác dụng đối với bệnh ung thư: ung thư xảy ra là do DNA bị lỗi và tế bào trong cơ thể bị đột biến, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì acide folic có một tác động rất tích cực trong hạn chế sự thay đổi của gen tên là p53 (sự thay đổi của loại gen này chính là một trong những nhân tố dẫn đến ung thư). Bổ sung 1.200-2.000mcg acide folic mỗi ngày sẽ giúp ích rất nhiều trong ngăn ngừa bệnh ung thư;· Acide folic tác động với bệnh Goutte: theo các nhà y học, bệnh nhân Goutte nếu bổ sung một lượng khoảng 10-40mcg acide folic có chứa trong thực phẩm mỗi ngày sẽ giúp tăng hiệu quả điều trị bệnh lên một cách hiệu quả;
· Acide folic với bệnh Crohn và hội chứng ruột kích thích (IBS_Irritable bowel syndrome): acide folic có một tác động tích cực trong việc hạn chế chứng bệnh này bởi nó giúp cải thiện sự hấp thụ dinh dưỡng trong đường ruột, thiếu acide folic có thể gây ra sự thay đổi cấu trúc các tế bào trong màng nhầy của thành ruột, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém hấp thu dinh dưỡng trong đường ruột);
· Acide folic tác động đối với chứng rụng tóc:trong một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ nghiên cứu trên 29 triệu người Mỹ bị mắc chứng rụng tóc, đa số là do thiếu acide folic, điều này khiến cho nồng độ homocysteine tăng cao và gây ảnh hưởng tới quá trình tuần hoàn máu, gây ra rụng tóc.