Hiện nay, Chương trình Phòng chống sốt rét quốc gia các nước, nhất là các quốc gia châu Phi và Đông Nam Á đều sử dụng thuốc primaquine trong phác đồ điều trị sốt rét theo các mục đích khác nhau, hoặc là diệt giao bào chống lây lan, hoặc diệt thể ngủ trong gan chống tái phát. Thời gian sử dụng thay đổi tuỳ thuộc mục đích (có thể 1 hoặc 10 ngày, nếu theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới là 14 ngày). Song, primaquine là thuốc nằm trong danh mục thuốc có đặc tính oxy hoá, dể gây tán huyết cho bệnh nhân bị thiếu men G6PDH, liệu việc sử dụng thuốc này có an toàn không khi chúng ta đưa ra quyết định dùng primaquine hay không dùng trên những đối tượng này, cần phải suy xét! Tại Việt Nam và một số quốc gia Đông nam châu Á, chưa có một công trình nghiên cứu về vấn đề thời sự này. May thay, mới đây một số công trình đã cho thấy và đáng tin cậy
Danh mục thuốc và hoá chất nên sử dụng thận trọng đối với cá nhân thiếu G6PD
Acetanilic Ciprofloxacine Chloramphenicol Dapson Furazolidone Glafenine Methylene bleu Nalidixic acid Naphtalene Niridazole(Ambilhar) | PSA Artecom Artekin Primaquine CV8 Sulfacetamide Sulfamethoxazole(Gantanol) Sulfanilamide Sulfapyridine Pyridium | Isobutyl nitrite Nitrofuratoine (Furadatine) Phenazopyridium Toluidine blue Trinitro toluene (TNT) Urate oxidase Thiazolesulfone Thuèc nhãm AINS Phenylhydrazine |
(Cập nhật từ Current Medical Diagnosis and Treatment, 2002-2005)
Gần đây, theo khuyến cáo từ nghiên cứu của Trung tâm y tế môi trường Navy, đại học Iowa, Mỹ, 2002 báo cáo và khẳng định vẫn có thể sử dụng thuốc primaquine cho bệnh nhân mắc sốt rét mà bản thân họ có thiếu men G6PDH bẩm sinh (qua xét nghiệm và phân loại thiếu men G6PDH). Hiện nay, thử nghiệm đánh giá thiếu men G6PDH phần lớn là xét nghiệm định tính, bán định tính, một số thử nghiệm có đo đượng nồng độ G6PDH nên có khả năng xác định mức độ trầm trọng cũng như phân loại thiếu men G6PDH. Những đối tượng có test G6PDH dưng tính thì phi được thông báo về dấu chứng và triệu chứng mà họ có và nguyên do (nếu có thể) xuất hiện triệu chứng đó. Những thuốc có tính oxy hoá cao, bản thân họ nên được tư vấn về chuyên khoa. Kết quả sàng lọc đối tượng có thiếu men G6PDH nên ghi rõ ràng vào hồ sơ bệnh án cho từng cá nhân, nên có kế hoạch khám kiểm tra định kỳ để xác định tình trạng men G6PDH, nhóm máu, tình trạng miễn dịch. Nếu thông tin vô tình bị thất lạc hay không có thì có thể xét nghiệm lại., lưu các số liệu vào máy tính.
Hiện tại một số vùng không có chỉ định dùng Primaquine cho người thiếu men G6-PDH cho những nhân viên quân đội. Nếu trong tương lai, cá nhân thiếu men G-6-PD được cho phép dùng thuốc này thì nên khuyến cáo phi xét nghiệm men G6-PDH. Khi dùng thì liều thuốc được cho dựa vào dữ liệu nhân chủng học, dịch tễ... (vì một số dữ liệu cho thấy thiếu men G6-PDHA thường hay gặp ở người Mỹ gốc Phi, và thiếu men G-6-PD hay gặp ở người Châu Âu).
Dự phòng hay điều trị primaquine (primaquine prophylaxis/ treatment)
Primaquine vẫn là thuốc duy nhất điều trị phòng sốt rét tái phát. Nó có thể sử dụng an toàn ở người thiếu men G6-PDH nếu dưói sự giám sát chặt chẽ của nhân viên y tế, liều lượng cho thấp hơn liều bình thường và thời gian kéo dài để tránh tình trạng tan máu do phản ứng oxy hoá của thuốc. Phát đồ điều trị primaquine gồm 24 liều trong thời gian hơn 8 tuần ở những người thiếu men G6-PDHA và 60 liều trong thời gian hơn 30 tuần ở người thiếu men G6-PDHMed .
Phân loại thiếu men | Cách dùng |
G-6-PDH bình thường | 1 viên/ngày trong 14 ngày |
Thiếu G-6-PDH A | 3 viên/tuần trong 8 tuần |
Thiếu G-6-PDHMed | 2 viên/ tuần trong 30 tuần |
Chú ý: một viên thuốc primaquine đề cập ở đây gồm có 26,3 mg primaquine phosphate, hay 15 mg primaquine base.
Giám sát dùng thuốc primaquine trên đối tượng thiếu men G6PDH
Nếu trong tương lai, primaquine nếu được cho phép dùng để điều trị cho những đối tượng thiếu men G6-PDH, thì thuốc nên dùng dưới sự giám sát của thầy thuốc. Sử dụng que thử nước tiểu để kiểm tra đánh giá, hematocrite thực hiện 3-4 ngày ngay sau khi dùng thuốc liều đầu tiên.
Nếu hiện tượng tan máu xảy ra, trong trường hợp thiếu men G6-PDHA không cần đòi hỏi truyền máu vì có khả năng tự giới hạn, thậm chí thuốc có thể được khuyên dùng tiếp tục !important; nhưng thiếu G6-PDHMed nên dừng thuốc, truyền máu toàn phần hay hồng cầu khối, bổ sung thêm acide folic có thể có ích do giúp hoạt động tuỷ xương trở lại.