Một nghiên cứu mới đây của Jane Ruth Aceng và cộng sự Khoa Nhi-Trường Đại học y Makerere, Kampala, Uganda về so sánh ngẫu nhiên hiệu lực của artemether viên đặt hậu môn với quinine tiêm tĩnh mạch với mục đích so sánh hiệu lực và độ an toàn của các thuốc này trong điều trị sốt rét thể não ở trẻ em tại Uganda.
Sốt rét ác tính (SRAT) thể não do Plasmodium falciparum là một thể bệnh nghiêm trọng nhất với các biến chứng gây nguy hiểm tới tính mạng của bệnh nhân, tỷ lệ tử vong từ 5-40%1, với hầu hết các ca tử vong xảy ra trước 24 giờ2. Mặc dù quinine tiêm tĩnh mạch được chỉ định điều trị SRAT thể não,1 các thuốc thay thế khác cũng cần được chỉ định trong trường hợp tiêm tĩnh mạch không thể thực hiện được.3 Hầu hết các nghiên cứu về so sánh hiệu lực giữa artemether viên đặt hậu môn với quinine tiêm tĩnh mạch được thực hiện ở người lớn.4-6 Kết quả của những nghiên cứu này cũng khác nhau, và những tài liệu về thử nghiệm artemether ở trẻ em cũng còn hạn chế.6 Một nghiên cứu gân đây ở người lớn và trẻ em mắc SR thường cho thấy chỉ với một liều duy nhất artesunate viên đặt hậu môn, mật độ KSTSR trong máu giảm đáng kể. Nếu có hiệu quả, viên đặt artemether sẽ đặt biệt hữu ích trong việc điều trị các ca SRAT trẻ em ở các cơ sở y tế địa phương,2 nơi thường không đủ các phương tiện điều trị tiêm truyền.3 8 Sử dụng các loại thuốc đặt hậu môn còn ngăn ngừa đáng kể các biến chứng gây nguy hiểm tới tính mạng thường xảy ra khi việc áp dụng liệu trình điều trị tích cực SRAT thể não ở trẻ em không được đáp ứng kịp thời.
Nghiên cứu này được thực hiện tại Phòng hồi sức cấp cứu Bệnh viện Mulago, Kampala-Uganda từ tháng 7năm 2002 đến tháng 2 năm 2003 cho đối tượng là 103 trẻ em từ 6 tháng tới 5 tuổi, SRAT thể não. Bệnh nhân được lựa chọn theo phương pháp ngẫu nhiên, mù đơn, thử nghiệm lâm sàng để điều trị quinine tiêm hoặc artemether viên đặt hậu môn trong 7 ngày. Các chỉ số đánh giá chính dựa vào Thời gian cắt sốt (FCT), thời gian sạch KSTSR (PCT) !important; thời gian phục hồi ý thức, bắt đầu có thể uống thuốc được, ngồi vững, và tác dụng phụ của thuốc.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt về các chỉ số KSTSR và lâm sàng giữa artemeter viên đặt hậu môn và quinine tiêm tĩnh mạch không có ý nghĩa (PCT = 54,2 giờ (SD 33,6) so với 55,0 giờ (SD 24.3), P = 0,90; FCT 33,2 giờ (SD 21,9) so 24,1 giờ (SD 18,9; P = 0,08; thời gian thoát khỏi hôn mê = 3011 (SD 2411) so 22,67 giờ (SD 18,5), P = 0.10; thời gian bắt đầu tự uống thốc = 37,9 giờ (SD 27,0) so 30,3 giờ (SD 21,1), P = 0,14). Tỉ lệ tử vong ở nhóm điều trị bằng quinine cao hơn nhóm điều trị bằng artemether (10/52 so với 6/51; nguy cơ tương đối = 1.29, khoảng tin cậy 95% từ 0,84 to 2,01). Không có trường hợp nào xảy ra tác dụng phụ nghiêm trọng.
Kết luận: Artemether viên đặt hậu môn có hiệu lực và đáp ứng tốt, vì vậy có thể được sử dụng để điều trị SRAT thể não.
Toàn bộ diễn biến quá trình nghiên cứu được mô tả sau đây: