Mô hình điểm kính hiển vi ở miền Trung-Tây Nguyên
Sốt rét hiện nay vẫn còn là một bệnh có mức lưu hành nặng, gây tỷ lệ chết và mắc cao ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực. Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO-2008,2009), hiện nay trên thế giới có khoảng 247 triệu ca mắc bệnh sốt rét trong số 3,3 tỷ người sống trong vùng nguy cơ mắc bệnh 2006, nguyên nhân của 1 triệu người chết, phần lớn là trẻ em dưới 5 tuổi. Năm 2008 có 109 nước có sốt rét lưu hành, trong đó có 45 nước thuộc khu vực Châu Phi-WHO. Các biện pháp kiểm soát bệnh sốt rét tổng hợp được triển khai hiện nay bao gồm tẩm màn với hóa chất tồn lưu kéo dài, hóa trị liệu phối hợp (Artemisinin based combination Therapy-ACT) kết hợp với phun tồn lưu trong nhà và điều trị dự phòng cho phụ nữ có thai.
Mặc dù đã có sự hỗ trợ rất lớn về màn tẩm, đặc biệt cho Châu Phi vào năm 2006 nhưng vẫn còn lâu nữa mới đáp ứng được cho toàn thế giới.
Việc cung cấp thuốc sốt rét thông qua các dịch vụ y tế công cộng đã tăng đáng kể nhưng sự tiếp cận với điều trị đối với hóa trị liệu phối hợp ACT vẫn còn khó khăn.
Ở Việt Nam, bệnh sốt rét phổ biến và diễn biến phức tạp ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, và đông Nam bộ. Sốt rét là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sức khoẻ và phát triển kinh tế cho cộng đồng dân các vùng núi và cao nguyên ở Việt Nam
Mục tiêu của Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét Việt Nam là giảm chết, giảm mắc và khống chế dịch sốt rét. Một trong 4 yếu tố kỹ thuật cần thiết phải được cung cấp để đạt các mục tiêu này là chẩn đoán và điều trị sớm cho tất cả bệnh nhân sốt rét, đặc biệt tại tuyến y tế cơ sở xã của các vùng sốt rét lưu hành. Đây là một trong những yếu tố quan trọng được WHO và các Hội nghị quốc tế gần đây đưa lên hàng đầu cần thiết phải thực hiện đầy đủ để khống chế sốt rét.
Vì vậy để đạt được các mục tiêu của chương trình ngoài việc áp dụng các biện pháp quy ước nói chung, cung cấp hệ thống phát hiện và chẩn đoán bệnh sớm là rất quan trọng. Một trong những giải pháp được đặt ra là thiết lập các điểm kính hiển vi ngay tại tuyến xã để chẩn đoán và điều trị sớm bệnh sốt rét đồng thời góp phần vào củng cố màng lưới y tế cơ sở là một nhu cầu cấp thiết để thực hiện và bảo vệ thành quả của chương trình phòng chống sốt rét.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu việc thiết lập cũng như đánh giá hoạt động của hệ thống điểm kính hiển vi trong công tác chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét.
Khác với nhiều bệnh khác, sốt rét là một bệnh có các dấu hiệu lâm sàng đơn giản nhưng chẩn đoán bệnh SR lại phức tạp và đôi khi khó hoặc rất khó chẩn đoán phân biệt với nhiều bệnh khác. Để chẩn đoán bệnh sốt rét người ta thường dựa vào 3 yếu tố : Dịch tễ, lâm sàng và xét nghiệm.
Xét nghiệm máu tìm ký sinh trùng sốt rét dưới kính hiển vi quang học
Trong đó xét nghiệm máu ngoại vi tìm KSTSR là yếu tố quyết định, như là một “tiêu chuẩn vàng”. Việc ứng dụng kỹ thuật này trong chương trình chống bệnh sốt rét đã được đề xuất bởi các chuyên gia của WHO, được thực hiện từ những năm đầu của chương trình tiêu diệt sốt rét và đã có một số mô hình ứng dụng kỹ thuật này trong hệ thống y tế trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Một số nước như Mỹ, Mexico, Guatemala đã thiết lập những điểm phát hiện sốt rét theo đề nghị của WHO. Thuật ngữ điểm phát hiện sốt rét (Malaria Detection Post-MDP) đã xuất hiện từ giai đoạn đầu của chương trình tiêu diệt sốt rét. Tuy nhiên nhiệm vụ của các MDP này chỉ phát hiện thụ động các ca nghi ngờ, lấy lam máu và gửi đến các phòng xét nghiệm cách xa cộng đồng dân cư. Sau khi có kết quả, các phòng xét nghiệm sẽ gửi trở lại kết quả cho các MDP này. Phương tiện gửi đi và trả lời kết quả, kể cả lam máu chủ yếu qua đường bưu điện. Việc thiết lập các MDP phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế xã hội. Ở các nước phát triển, các MDP này chủ yếu dựa vào các cơ sở y tế nhà nước và có sự phối hợp với các cơ sở tư nhân ( bệnh viện tư, phòng khám tư, kỹ thuật viên, nữ hộ sinh, giáo viên, cán bộ truyền thông y tế...). Ở Mexico, các điểm MDP được thiết lập và hợp tác vớicác cơ sở y tế nhà nước, cơ sở y tế tư nhân, y tá, nữ hộ sinh, dược sĩ, kỹ thuật viên của các phòng xét nghiệm, giáo viên hoặc các nhân viên khác ở trường học, nhân viên truyền thông giáo dục sức khoẻ...
Trong chương trình tiêu diệt sốt rét ở Mỹ, MDP được gọi là điểm thông tin về các ca sốt (Information Post for Fever Cases-IPFC). Những điểm này được triển khai kết hợp với các trung tâm y tế ở nông thôn, phòng khám bệnh hoặc với người tình nguyện.
Nhiệm vụ của các điểm này là phát hiện cácca sốt (kể cả các ca nghi ngờ) chủ yếu là phát hiện bệnh thụ động (Passive Case Detection-PCD), lấy lam máu và gởi đến các phòng xét nghiệm qua đường bưu điện. Sau khi có kết quả, nhân viên y tế ở các điểm này sẽ quyết định điều trị cho bệnh nhân.
Năm 1960, ở Guatemala và Mexico đã có một số đánh giá về MDP, có đến 20-40% địa phương trong vùng sốt rét được thiết lập MDP, mỗi điểm MDP sẽ phụ trách cho 600-700 người. Ở Ceylan, người ta cũngtriển khai nghiên cứu hiệu quả của các MDP ở một huyện có số dân là 70.000 ngàn người. Trong huyện này có 157 làng nhưng chỉ có 15 điểm MDP và mỗi MDP phụ trách cho 4.500 người. Tại Ceylan, các điểm MDP được thiết lập dựa vào các bệnh viện nông thôn và các phòng khám. Kết quả đánh giá đã cho thấy hiệu quả hoạt động không chỉ phụ thuộc vào độ bao phủ của các điểm này mà còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố khác như kiến thức, thái độ và khả năng thu hút cộng đồng đến khám bệnh.
Ở Châu Á, một số nước cũng đã xây dựng những điểm phát hiện bệnh tương tự như MDP để phục vụ chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu và phòng chống sốt rét. Tại Malaysia những điểm này gọi là điểm chăm sóc sức khoẻ trong nghiên cứu phòng chống sốt rét ở bang Kelatan. Nhân viên ở các điểm chăm sóc sức khoẻ ban đầu này hoạt động theo phương thức tình nguyện và được cộng đồng chọn lựa. Nhiệm vụ của các điểm này là giúp nhân viên y tế lấy lam máu cho những ca sốt, tuyên truyền và giáo dục cho cộng đồng về phòng chống sốt rét. Một nghiên cứu đã được tiến hành để đánh giá hoạt động của các điểm này ở bang Kelatan trong 2 năm 1988-1989. Nghiên cứu này đã rút ra nhận xét là nhờ có hoạt động của các điểm chăm sóc sức khoẻ ban đầu nên số lam máu lấy được tăng lên, tỉ lệ lam dương tính tăng từ 6,10% lên 11,80%, số người được theo dõi điều trị tiệt căn tăng 50%. Tuy nhiên nghiên cứu này cũng đưa ra đề nghị rằng trong khi tiếp tục phát triển các điểm này, cần thiết phải có những đánh giá định kỳ dù sốt rét có giảm ở một số nơi. Ngoài ra cần thiết phải mở rộng nghiên cứu thêm về những vấn đề sau:
- Mô hình, mức độ và vai trò của nhân viên y tế tình nguyện và các điểm chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
- So sánh hiệu suất các điểm chăm sóc sức khoẻ ban đầu của nhân viên y tế tình nguyện liên quan đến giám sát, huấn luyện, phát hiện bệnh thụ động (PCD)...
Như vậy các MDP hoặc các điểm chăm sóc sức khoẻ ban đầu này chỉ phát hiện và lấy lam máu gửi đi chứ không có kính hiển vi để trực tiếp xét nghiệm, hơn nữa các điểm này chỉ thực hiện phát hiện bệnh thụ động, vì vậy đây chưa phải là mô hình điểm kính hiển vi phục vụ trực tiếp cho cộng đồng và y tế cơ sở.
Ở Trung Quốc một nghiên cứu về vai trò giám sát sốt rét ở vùng sốt rét lưu hành nhẹ dựa vào các trung tâm xét nghiệm của quận và màng lưới chăm sóc sức khoẻ ban đầu được tiến hành ở tỉnh Hồ Bắc trong 2 năm 1994-1995. Mỗi trung tâm xét nghiệm ở Hồ Bắc trung bình phụ trách cho 27.000 dân. Tất cả lam máu được lấy ở làng hoặc ở các phòng khám ngoại trú và bệnh viện quận sẽ được gửi đến phòng xét nghiệm của trung tâm y tế quận. Nghiên cứu đưa ra nhận xét về vai trò trong việc xét nghiệm máu giúp cho việc điều trị, hạ tỉ lệ mắc bệnh trong cộng đồng, tuy nhiên cũng đề nghị rằng khi tỉ lệ bệnh đã giảm thấp cần giảm số lam lấy máu ở các đối tượng sốt hoặc chỉ có gai rét thông thường nhưng không nghi ngờ là do sốt rét .
Ở Thái Lan người ta xây dựng các phòng khám sốt rét (Malaria clinics) tách rời các cơ sở y tế có nhiệm vụ lấy lam máu xét nghiệm thụ động và chỉ cho các loại thuốc dưới dạng uống. Tuy nhiên rất ít các báo cáo đánh giá về hoạt động của các phòng khám sốt rét này.
Các nghiên cứu về mô hình điểm kính hiển vi ở Việt Nam
Thuật ngữ điểm kính hiển vi xuất hiện ở Việt Nam hoàn toàn khác hẳn với điểm phát hiện sốt rét và các phòng khám sốt rét. Điểm kính hiển vi ở Việt Nam được lồng ghép vào các trạm y tế xã hoặc phòng khám khu vực, đồng thời được trang bị kính hiển vi trực tiếp xét nghiệm các lam máu phục vụchương trình phòng chống sốt rét cho cộng đồng trong vùng phụ trách. Nhiệm vụ của các điểm kính này là tham gia xét nghiệm để phục vụ cho chẩn đoán sớm tại y tế cơ sở, quản lý bệnh nhân và tham gia vào công tác chống dịch cũng như giám sát dịch tễ cụ thể là :
+ Phát hiện sớm bệnh nhân sốt rét bằng hệ thống chủ động và thụ động, chẩn đoán đúng, điều trị kịp thời đúng phác đồ ngay từ cơ sở nhằm hạn chếtác hại và tử vong do bệnh sốt rét. Cấp cứu các trường hợp sốt rét nặng, ác tính trước khi chuyển lên tuyến trên.
+ Giám sát dịch tễ, quản lý bệnh nhân sốt rét, theo dõi diễn biến tình hình sốt rét tại khu vực phụ trách nhằm nhanh chóng phát hiện các ổ bệnh, ổ dịch để phòng chống có hiệu quả.
+ Tham gia giáo dục sức khoẻ, truyền thông về sốt rét cho cộng đồng làm tăng hiệu quả các biện pháp phòng chống sốt rét .
+ Nâng cao trách nhiệm và hoạt động phòng chống sốt rét của y tế cơ sở góp phần phục vụ công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho cộng đồng.
+ Thông tin báo cáo cho tuyến trên và tuyến dưới kịp thời.
Quản lý hoạt động các điểm kính hiển vi:
+ Điểm kính chịu sự chỉ đạo về mặt chuyên môn và kỹ thuật của trung tâm y tế huyện và trung tâm phòng chống sốt rét tỉnh.
+ Hoạt động lồng ghép với y tế cơ sở trong địa bàn điểm kính phụ trách
+ Chỉ đạo tuyến y tế thôn bản thực hiện các nhiệm vụ phòng chống sốt rét .
Trong những năm đầucủa chương trình tiêu diệt sốt rét ở Việt Nam, tại thí điểm tiêu diệt sốt rét Thái Nguyên (1957-1964), một số điểm kính hiển vi được thiết lập với tiêu chuẩn 1 kính/ 20.000 dân, đặt tại đội Vệ sinh phòng dịch-sốt rét huyện chủ yếu để đánh giá kết quả tiêu diệt sốt rét. Thí điểm Thái Nguyên đã đạt được kết quả hạ tỉ lệ bệnh sốt rét từ một bệnh rất phổ biến xuống mức không đáng kể. Tuy nhiên so với tiêu chuẩn chuyển sang giai đoạn củng cố là:
-Tỉ lệ ký sinh trùng sốt rét toàn dân < 1/10.000 dân.
-Tỉ lệ ký sinh trùng sốt rét trẻ em < 2 tuổi bằng 0.
-Cơ sở y tế phải có khả năng phát hiện và quản lý nguồn bệnh.
Như vậy thí điểm Thái Nguyên chỉ đạt 2 tiêu chuẩn đầu, còn tiêu chuẩn thứ 3 có ý nghĩa quyết định vẫn chưa đạt được. Đề tài đã rút ra kết luận muốn đạt được tiêu chuẩn này cần phải có màng lưới phát hiện, quản lý nguồn bệnh ở tất cả các cơ sở xã và công nông lâm trường xí nghiệp, bên cạnh đó cần có 1 hệ thống chuyên khoa có trình độ và kinh nghiệm trong công tác này. Đó là tồn tại cầngiải quyết để có thể giữ vững thành quả của chương trình phòng chống sốt rét.
Trong giai đoạn thanh toán sốt rét 1981-1986, để thực hiện đề tài nghiên cứu “ Xây dựng huyện thanh toán sốt rét”, một số điểm kính liên xã (3-5 xã) được gắn vào phong khám khu vực vừa phục vụ việc đánh giá, vừa phục vụ chẩn đoán và điều trị bệnh nhân sốt rét thuộc các huyện Đại Từ (Bắc Thái), Văn Yên (Hoàng Liên Sơn), Sơn Dương (Hà Tuyên), Thuận Châu (Sơn La). Các điểm thí điểm này đã có vai trò giúp công tác chẩn đoán ở các phòng khám khu vực, tuy nhiên vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu chẩn đoán sớm cho các xã và cộng đồng dân ở xã
Triển khai các điểm kính hiển vi tiếp tục được thực hiện trong giai đoạn 1986-1990 ở các huyện Đại Từ (Bắc Thái), Nga Sơn (Thanh Hoá), Tây Sơn (Bình Định), Cần Giuộc (Long An). Điểm kính hiển vi được đặt ở phòng khám khu vực, liên xã (2-4 xã) hoặc tại xã. Nhiệm vụ của các điểm kính này là xét nghiệm máu cho tất cả những người có sốt hoặc nghi ngờ, đồng thời xét nghiệm và trả lời kết quả các lam máu được gửi từ các trạm y tế xã hoặc trực tiếp cho bệnh nhân đến khám tại điểm kính. Khi nhận được kết quả, cán bộ y tế sẽ điều trị bệnh nhân theo loài ký sinh trùng sốt rét được chẩn đoán bằng kính hiển vi và bệnh nhân được quản lý theo thời gian quy định cho mỗi loại ký sinh trùng.
Các nghiên cứu trên cho thấy rằng việc đưa dần một tiến bộ kỹ thuật tiếp cận người dân phù hợp với đường lối y học hiện đại của ta và thế giới cần được khuyến khích phát triển. Tuy nhiên đề tài cũng đề nghị cần có các nghiên cứu tiếp theo về tiêu chuẩn hoá điểm kính, các điều kiện tối thiểu để duy trì hoạt động lâu dài. Ngoài ra cần nghiên cứu đặt điểm kính ở đâu (xã, liên xã, phòng khám khu vực) cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của ta. Như vậy điểm kính hiển vi ở tuyến y tế cơ sở được xemlà một hệ thống tổ chức kỹ thuật của màng lưới chuyên khoa sốt rét trong Chương trình phòng chống sốt rét ở Việt Nam. Để tận dụng thêm hiệu xuất, các điểm kính này sẽ kết hợp với việc xét nghiệm công thức máu và phân phục vụ việc nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phòng chống giun sán và các bệnh ký sinh trùng khác ở tuyến y tế cơ sở.
Những năm 1990-1992 tình hình sốt rét cả nước, đặc biệt ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên diễn biến rất phức tạp, số bệnh nhân, tử vong sốt rét ngày càng tăng cao. Để đạt được mục tiêu của chương trình là giảm tỉ lệ chết, giảm tỉ lệ mắc và khống chế dịch sốt rét Chương trình phòng chống sốt rét Việt Nam đã có định hướng xây dựng các điểm kính hiển vi. Vì vậy trong giai đoạn này số điểm kính tăng lên rõ rệt, tập trung cao nhất ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Riêng ở Bình Thuận một tỉnh thuộc miền Trung và Tây Nguyên, từ10 điểm kính xã 1992 đến năm 1994 đã có 38 điểm kính được thiết lập ở xã. Nếu so sánh với 110 xã của toàn tỉnh thì năm 1994 số điểm kính chiếm 34,54% xã có điểm kính hoạt động. Đến 1997 tỉnh Bình Thuận đã có 61 điểm kính chiếm 55,45% xã có điểm kính, nếu tính tỉ lệ điểm kính so với 69 xã trong vùng lưu hành SR thì tỉnh đã có 72,46% điểm kính hoạt động ở các vùng sốt rét lưu hành nhẹ trở lên.
Ở các tỉnh phía Nam, sau một thời gian theo dõi việc triển khai và hoạt động của các điểm kính từ 1986-1993, nghiên cứu đã đưa ra một số nhận xét về hoạt động của các điểm kính như sau: Các điểm kính hoạt động tốt đã góp phần làm giảm tỉ lệ ký sinh trung/lam soi, giảm mầm bệnh trong cộng đồng. Tuy nhiên báo cáo cũng đưa ra một số khuyến cáo là cần xem xét lại phạm vi hoạt động của điểm kính, cụ thể là điểm kính phụ trách cho 5.000, 10.000 hay 100.000 ngàn dân và làm thế nào để duy trì chất lượng hoạt động của điểm kính trong thời gian lâu dài.
Để đánh giá kết quả phòng chống sốt rét ở Việt Nam giai đoạn 1992-1995, một số điểm kính đã được khảo sát, qua kết quả khảo sát đề tài đã đưa ra khuyến nghị cần phát triển các điểm kính gần dân hơn nữa (điểm kính xã), xét nghiệm đúng đối tượng (nghi sốt rét, có nguy cơ sốt rét), trả lời sớm kết quả và nâng cao chất lượng xét nghiệm lam của xét nghiệm viên hơn nữa.
Việc xây dựng điểm kính hiển vi của Việt Nam trong điều kiện chưa có nhiều kinh nghiệm và kinh phí hạn chế, vì vậy để phát triển thêm số điểm kính mới thì điều cần thiết là lồng ghép các chương trình y tế khác để nâng cao hiệu suất hoạt động của các điểm kính, đặc biệt là khi tình hình sốt rét đang có xu hướng giảm.
Cho đến nay cả nước đã có 2.203 điểm kính hiển vi phục vụ cho chương trình phòng chống sốt rét.
Khu vực miền Trung-Tây Nguyên hiện có 1.138 điểm kính. Trong đó có 980 điểm kính tuyến xã chiếm 85,51% so với tổng số 1.146 xã nằm trong vùng sốt rét lưu hành. Như vậy từ 40 điểm kính hiển vi tuyến xã năm 1992 đến nay khu vực miền Trung-Tây Nguyên có đến 980 điểm kính hiển vi xã tham gia các hoạt động phòng chống sốt rét. Nhờ có hoạt động của các điểm kính này nên mỗi năm tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã xét nghiệm trên 1 triệu lượt lam máu để phát hiện nhiễm ký sinh trùng sốt rét.
Đào tạo lại nâng cao chất lượng hoạt động điểm kính hiển vi
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các điểm kính hiển vi các tuyến, trong thời gian đến cần thường xuyên giám sát chất lượng, bổ sung các kính hiển vi đã hỏng, cung cấp các trang thiết bị tối thiểu để các điểm kính hoạt động tốt hơn. Ngoài ra cần chú ý lồng ghép các chương trình khác, đào tạo lại cho các xét nghiệm viên nhằm cập nhật thông tin và chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động phòng chống sốt rét.
Tài liệu tham khảo.
1.Bộ y tế (1998), Qui định về giám sát dịch tễ sốt rét, Nhà xuất bản y học, HàNội, tr.7-51.
2.Hồ Văn Hoàng, Nguyễn Tân (1997), “Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của điểm kính hiển vi phục vụ PCSR tại khu vực MT-TN", Thông tin phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện sốt sốt rét KST-CT Hà Nội, (2), tr. 36-41.
3.Hồ Văn Hoàng, Nguyễn Tân, Lê Văn Tới và CTV (2000), “Nghiên cứu vai trò của điểm kính hiển vi trong chương trình phòng chống sốt rét tỉnh Bình Thuận 1994-1998", Thông tin phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện sốt sốt rét KST-CT Hà Nội, (1), tr.8-15.
4.Nguyễn Quốc Hưng (1994), “Vai trò của điểm kính hiển vi trong phòng chống sốt rét”,Tài liệu y dượchọc, Hội y dược học Thành phố Hồ Chí Minh, (3), tr. 38-39.
5.Shen Jie, Zhang Shaoqing, Xu Bozhao, Cheng Feng (1998), “ Giám sát sốt rét ở vùng sốt rét lưu hành nhẹ",Thông tin phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện sốt sốt rét KST-CT Hà Nội, (3), tr.52-57.(Tài liệu dịch)
6.Phan Đình Luyên, Phùng Đức Thuận (1996), Đánh giá chất lượng hoạt động của các điểm kính hiển vi xét nghiệm sốt rét khu vực Nam Bộ-Lâm Đồng, Hội thảo xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động điểm kính hiển vi, Phan Thiết.
7.Vũ Thị Phan (1996), Dịch tễ bệnh sốt rét và phòng chống sốt rét ở Việt Nam, Nhà xuất bản y học, Hà Nội , tr. 142-264.
8.Malijia Mohd Riji (1993), “ PCSR/chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở Malaysia, những bài học về sự tham gia của cộng đồng", Thông tin phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện sốt rét KST-CT Hà Nội, (3), tr. 59-63.(Tài liệu dịch)
9.Elizabeth Streat (1995), Chẩn đoán labô bệnh sốt rét: Số lượng hay chất lượng, Khoá đào tạo quốc tế về phát triển nghiên cứu y sinh học, Amsterdam,tr.2-31 (Tài liệu dịch).
10.Lê Văn Tới (1996), Kinh nghiệm tổ chức và xây dựng điểm kính hiển vi xã, Hội thảo xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động điểm kính hiển vi, Phan Thiết.
11.Viện sốt rét KST-CT Hà Nội (1971), Kỹ thuật chuyên môn trong công tác tiêu diệt sốt rét, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr.115-156.
12.Viện sốt rét KST-CT Hà Nội, Kết quả điều tra đánh giá các cụm kính hiển vi tại 30 huyện trong toàn quốc giai đoạn 1992-1995, Hội thảo xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động điểm kính hiển vi, Phan Thiết.
13.Gilles H.M. (1993), “Diagnostic methods in malaria” Bruce Chwatt's Essential malariology, 3rd edition. Arnold publisher, London, pp. 78-85.
14.WHO (1993), A global strategy for malaria control, pp. 1-30.
15.WHO (1991), Basic malaria microscopy
16.WHO (1962), Mannual on epidemiological evaluation and surveillance in malaria eradication, pp. 27-88.
17.WHO (2009). Malaria Report 2009.