Phát triển kỹ thuật và thực hiện chương trình quân dân y kết hợp; Áp dụng kỹ thuật mới cứu bệnh nhân xơ gan; Cấp lại hoặc đổi thẻ bảo hiểm y tế phải nộp phí; Tết Canh Dần: 32% bệnh nhân nhập viện do tai nạn; Những tín hiệu vui từ Bệnh viện Bạch Mai…
Nhân dân
Phát triển kỹ thuật và thực hiện chương trình quân dân y kết hợp
Là một bệnh viện lớn của quân đội, bệnh viện thực hành của Học viện Quân y, có nhiệm vụ đào tạo, điều trị và nghiên cứu khoa học, Ðảng ủy, Ban Giám đốc Bệnh viện 103 luôn coi trọng phương châm đi tắt đón đầu trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; lấy phát triển khoa học làm động lực nâng cao chất lượng đào tạo và điều trị, đồng thời có giải pháp đồng bộ tập hợp lực lượng; phát huy nhiệt tình, trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học.
Ðẩy mạnh phát triển kỹ thuật
Trong mười năm (1999 - 2009), Bệnh viện 103 đã chủ trì bốn đề tài cấp Nhà nước, tham gia 58 đề tài nhánh cấp Nhà nước; 94 đề tài và nhánh đề tài cấp Bộ Quốc phòng; 485 đề tài cấp cơ sở. Trong đó có những đề tài thực hiện trong nhiều năm và có giá trị kinh tế cao như: ghép thận, ghép gan, ghép tim thực nghiệm, thụ tinh trong ống nghiệm, đánh giá hậu quả chất độc đi-ô-xin, v.v.
Thực hiện Nghị quyết số 13 của Ðảng ủy bệnh viện về tăng cường phát triển chuyên môn kỹ thuật, bệnh viện tiếp tục nâng cao chất lượng điều trị của các kỹ thuật truyền thống, từng bước phát triển chuyên sâu trên tất cả các chuyên ngành, phát triển một số kỹ thuật mũi nhọn chuyên sâu như: phẫu thuật nội soi, nội soi can thiệp, kỹ thuật vi phẫu, can thiệp mạch và mổ tim mở, mở rộng can thiệp mạch ngoại vi, nút mạch phổi điều trị khái huyết, kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán vi-rút; duy trì và phát triển cao hơn kỹ thuật ghép tạng (ghép gan, ghép thận), tiến tới ghép tim trên người.... Phát triển chuyên môn kỹ thuật phải gắn liền với điều trị và nghiên cứu khoa học; thực hiện tại chỗ và hợp tác các cơ sở y tế trong nước và quốc tế.
Bệnh viện đã có 63 sáng kiến cải tiến kỹ thuật (trong đó có một giải nhất VIFOTEC 2009, năm sáng kiến cấp Bộ Quốc phòng và 58 sáng kiến cấp Học viện). Các sáng kiến đã được đưa vào ứng dụng trong công tác đào tạo, chẩn đoán, điều trị và nghiên cứu khoa học.
Bệnh viện 103 đang giữ vị trí đầu ngành trong điều trị bệnh nghề nghiệp, bệnh tâm thần, là bệnh viện đóng vai trò chủ lực trong nghiên cứu, thực hiện và chuyển giao kỹ thuật ghép tạng: như ghép gan, ghép thận. Hiện nay, bệnh viện đã thực hiện thành công ca ghép thận thứ 50 mang lại sức khỏe và niềm vui cho người bệnh.
Thực hiện tốt chương trình quân dân y kết hợp
Thực hiện chủ trương của Ðảng và Nhà nước về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân và chương trình hành động của Bộ Y tế và Bộ Quốc phòng, những năm qua, Bệnh viện 103 đã thực hiện tốt chương trình "quân dân y kết hợp" (QDYKH), góp phần tích cực phục vụ sức khỏe nhân dân và bộ đội; đồng thời, thiết thực góp phần thực hiện công tác vận động quần chúng của Ðảng trong tình hình mới.
Nét nổi bật của việc thực hiện QDYKH ở Bệnh viện 103 trong thời gian qua là, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả quân y và dân y trên các địa bàn đến công tác; thực hiện tốt việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân và bộ đội ở các vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm về quốc phòng, an ninh, góp phần xã hội hóa công tác y tế và thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe con người. Năm 2009, bệnh viện đã cử 35 đoàn công tác, với 458 y bác sĩ, khám bệnh cho 14.657 lượt người là đồng bào các dân tộc Mông, Thái, Mường, Nùng, Khơ Mú, Xinh Mun, Sán Dìu, Kháng, La Ha... Bệnh viện đã phối hợp với Ðoàn Kinh tế-Quốc phòng B.26 và chính quyền huyện Sốp Cộp (huyện khó khăn nhất của tỉnh Sơn La); huyện Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Mường La... làm tốt các chính sách chăm sóc sức khỏe đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Sơn La. Gần đây, với sự giúp đỡ của Quỹ chăm sóc nông dân và Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang, bệnh viện tổ chức khám, tư vấn sức khỏe, cấp thuốc miễn phí cho 1.500 nông dân nghèo và đối tượng chính sách ở các huyện: Bình Giang, Nam Sách, Cẩm Giàng (tỉnh Hải Dương), tạo ấn tượng tốt đối với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương.
Bệnh viện đã tổ chức các đoàn đến thăm, khám bệnh, tặng quà thương binh tại các trung tâm điều dưỡng thương binh nặng ở Thuận Thành (Bắc Ninh); Duy Tiên, Liêm Cần (Hà Nam); khám bệnh cho các đối tượng chính sách ở Sơn La, Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hòa Bình, Phú Thọ... Theo yêu cầu của cấp trên, bệnh viện đã cử hàng trăm lượt bác sĩ, y tá đi tuyến khám bệnh, phân loại sức khỏe cho hơn 30.000 lượt cán bộ, công nhân viên các nhà máy, xí nghiệp, công trường, nông trường, cơ quan dân sự...
Thực hiện Chương trình QDYKH, đội ngũ thầy thuốc của bệnh viện tham gia tích cực phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm y tế trong phòng, chống thiên tai, thảm họa. Trong thập kỷ qua, tình hình dịch bệnh và thiên tai, thảm họa diễn biến rất phức tạp; đặc biệt, thiên tai thường xảy ra trên diện rộng, ảnh hưởng lớn đến đời sống, sức khỏe của nhân dân. Nhằm giảm các tác động đó, bệnh viện đã tích cực tham gia nghiên cứu về y học thảm họa, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn và đã mang lại hiệu quả thiết thực.
Góp phần quan trọng xây dựng tiềm lực y tế cho các địa bàn, cơ sở trong Chương trình QDYKH, bệnh viện đã đưa các nội dung, kế hoạch huấn luyện tạo nguồn cán bộ y tế, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng cơ sở cách mạng, kháng chiến cũ. Chỉ trong năm năm gần đây, cùng với Học viện Quân y, Bệnh viện 103 đã đào tạo 19 lớp dân y, với 2.177 học viên bậc đại học, các lớp đào tạo cho vùng sâu, vùng xa của khu vực Nam Bộ. Với Tây Nguyên, bệnh viện tham gia đào tạo 600 học viên là con em các dân tộc Ba Na, Gia Rai, Xê Ðăng, Ê Ðê... theo chương trình riêng, phù hợp trình độ của từng đối tượng. Ðây là lực lượng quan trọng làm nòng cốt xây dựng tiềm lực y tế cơ sở phục vụ dân sinh và quốc phòng ở các địa bàn chiến lược.
Năm 2009, nhờ sự nỗ lực không ngừng của nhiều thế hệ cán bộ, thầy thuốc nhân viên, Bệnh viện 103 đã được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND lần thứ hai. Phát huy kết quả đó, tập thể Bệnh viện 103 tiếp tục phấn đấu thực hiện tốt mọi nhiệm vụ, không ngừng nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân và quân đội, góp phần xây dựng tiềm lực y tế cơ sở, củng cố "thế trận lòng dân" trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Người lao động, Tiền phong
Áp dụng kỹ thuật mới cứu bệnh nhân xơ gan
Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vừa thực hiện thành công kỹ thuật “Phân lưu cửa chủ trong gan qua tĩnh mạch cảnh – TIPS”. Kỹ thuật này lần đầu được thực hiện tại VN.
Hai bệnh nhân là nam giới 44 tuổi và 52 tuổi, bị xơ gan từ nhiều năm và biến chứng chảy máu tiêu hóa nặng do vỡ dãn tĩnh mạch thực quản - phình vị tái diễn, phải nhập viện cấp cứu nhiều lần.
Cuối năm 2009, cả hai bệnh nhân nói trên đã được điều trị bằng kỹ thuật TIPS. Đến nay đã có đủ cơ sở để khẳng định kết quả điều trị thành công, không có biến chứng. Sức khỏe cả hai bệnh nhân hiện đã tốt lên và không bị chảy máu tái phát. TIPS là kỹ thuật can thiệp nội mạch được chỉ định cho bệnh nhân xơ gan có hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa có biến chứng, đã điều trị nội soi và nội khoa không kết quả.
Tiền phong, Gia đình & Xã hội
Cấp lại hoặc đổi thẻ bảo hiểm y tế phải nộp phí
Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cấp lại và đổi thẻ bảo hiểm y tế (BHYT). Theo đó từ ngày 18-3, mức phí cấp lại thẻ BHYT là 4.000 đồng/thẻ và phí đổi thẻ BHYT là 2.000 đồng/thẻ.
Thông tư nêu rõ sẽ không thu phí trong trường hợp đổi lại thẻ do thay đổi nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu hoặc có sai sót về thông tin ghi trên thẻ do cơ quan đơn vị lập danh sách người tham gia bảo hiểm gây ra. Chỉ thu phí khi người sử dụng thẻ BHYT xin cấp lại, cấp đổi trong các trường hợp: tiếp nhận thẻ BHYT từ cơ quan quản lý BHYT mà làm mất, rách, hỏng, nay được đổi lại. Thủ tục đổi và cấp thẻ BHYT mới rất đơn giản: Người dân chỉ cần làm đơn có xác nhận của chính quyền địa phương, sau đó chuyển đơn và thẻ BHYT cũ lên BHYT quận, huyện.
BHYT quận, huyện có nhiệm vụ chuyển dữ liệu và hồ sơ về phòng cấp sổ thẻ của BHXH thành phố để tiến hành cấp thẻ BHYT mới. Toàn bộ quy trình đổi và cấp lại thẻ BHYT chỉ diễn ra trong thời gian từ hai đến ba ngày.
Gia đình & Xã hội
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, TS. Dương Quốc Trọng – Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình: Hướng tới khoa học và hiệu quả
"Kết quả điều tra suy rộng mẫu của cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở (TĐTDS&NƠ) vừa qua cho thấy những giá trị, thành công và hiệu quả của công tác DS-KHHGĐ. Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng tại Hội nghị công bố kết quả sơ bộ TĐTDS&NƠ ngày 13/8/2009 cũng đã nhấn mạnh, công tác DS-KHHGĐ đã góp phần trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta nói chung và việc nâng cao GDP bình quân đầu người nói riêng". TS. Dương Quốc Trọng - Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ trao đổi với phóng viên Báo GĐ&XH như vậy nhân dịp đầu xuân Canh Dần 2010.
Điều đó cho thấy một bức tranh chung về công tác DS-KHHGĐ thời gian qua như thế nào, thưa ông?
Qua 2 lần Ban Chỉ đạo TĐTDS&NƠ công bố sơ bộ và điều tra suy rộng mẫu, chúng ta thấy được những nét chung, rất cơ bản về tình hình dân số Việt Nam vào ngày 1/4/2009. Đứng về quy mô dân số, cả nước có khoảng 85,8 triệu người, thấp hơn so với dự kiến trước đây. Tỉ lệ tăng dân số bình quân trong 10 năm đạt 1,2%, thấp hơn nhiều so với những thập kỷ trước - mức giảm sinh cao nhất trong nhiều thập kỷ qua, trong điều kiện số phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ tăng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước. Tỉ suất sinh thô trong 12 tháng trước thời điểm điều tra ở mức 17,6%o, năm 2009 chúng ta đạt mức giảm sinh 0,2%o sau nhiều năm không đạt được chỉ tiêu Quốc hội giao. Tổng tỉ suất sinh (TFR: số con trung bình của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) là 2,03 con, dưới mức sinh thay thế. Mật độ dân số 259 người/km2, thấp hơn so với đánh giá của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) vào thời điểm 2008 là 260 người/km2...
Với tổng tỉ suất sinh là 2,03 và tỉ lệ tăng dân số bình quân 1,2%, ông có cho rằng quy mô dân số sẽ không còn là vấn đề bức bách trong thời gian tới?
Những con số trên là những thành công rất tốt đẹp của công tác DS-KHHGĐ bắt nguồn từ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức cũng như đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên dân số trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, việc duy trì mức sinh thấp, hợp lý, nhằm sớm ổn định quy mô dân số vẫn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác DS-KHHGĐ. Theo kết quả điều tra suy rộng mẫu, tỉ lệ tăng dân số cũng như tỉ suất sinh của các vùng miền còn rất khác nhau.
Một chỉ tiêu hết sức quan trọng là tổng tỉ suất sinh còn rất khác nhau giữa các vùng, miền, giữa các tỉnh. Tổng tỉ suất sinh chung trong toàn quốc là 2,03 con song có các tỉnh còn rất cao như Kon Tum 3,45 con, Hà Giang 3,08, Lai Châu 2,96, Gia Lai 2,88, Quảng Trị 2,85, Đắk Nông 2,72, Lào Cai 2,7... Bên cạnh đó có những tỉnh ở dưới mức sinh thay thế rất thấp như: TP HCM 1,43, Vĩnh Long 1,63, Bình Dương 1,7,...
Bên cạnh đó, lại có những vấn đề mới nảy sinh, đó là có những tỉnh tỉ lệ tăng dân số rất cao, như Bình Dương bình quân trong 10 năm qua tăng tới 7,3%/ năm, TP HCM tăng 3,5%, Kon Tum 3,1%, Bình Phước 2,9%, Gia Lai 2,7%... Trong khi đó, có những tỉnh tăng trưởng dân số lại âm như Bến Tre, Hà Tĩnh, Nam Định âm 0,3%, Thanh Hóa âm 0,2%, Hà Nam âm 0,1%... so với giai đoạn trước. Đáng chú ý là việc tăng, giảm dân số nói trên đều là tăng hoặc giảm cơ học do sự dịch chuyển dân cư từ tỉnh này sang các tỉnh khác. Như TP HCM dân số tăng bình quân 3,5%/năm nhưng tỉ lệ tăng dân số tự nhiên chỉ là 1,1%, còn tăng dân số cơ học lên tới 2,4%.
Theo ông, ngành dân số sẽ điều chỉnh sự chênh lệch này như thế nào?
Như trên tôi đã đề cập, Bình Dương là tỉnh có tỉ lệ tăng dân số cao nhất nước 7,3%. Nếu nhìn vào con số này thì tỉ lệ gia tăng dân số của Bình Dương là rất cao, rất đáng lo ngại, công tác DS-KHHGĐ rất thúc bách. Nhưng nếu nhìn vào tổng tỉ suất sinh thì lại rất thấp 1,7. Tương tự TP HCM cũng vậy, tỉ lệ gia tăng dân số là 3,5% nhưng tổng tỉ suất sinh lại chỉ có 1,45.
Dân số, bản thân nó đã là một môn khoa học, cần những cứ liệu chuẩn xác để có những giải pháp đúng và chính xác, đặc biệt, giúp cho các nhà hoạch định chính sách có được những cứ liệu khoa học quan trọng để xây dựng chiến lược kinh tế-xã hội của đất nước cũng như từng ngành, từng địa phương. Tổng tỉ suất sinh là một chỉ số quan trọng, có ý nghĩa khoa học trong việc điều chỉnh mức sinh cho phù hợp. Thời gian qua chúng ta rất thành công trong công tác giảm sinh, nhưng nếu để cho giảm sinh sâu quá, thì khi vực lên rất khó. Để giảm sinh đã khó song đến một ngưỡng nào đó, việc tăng sinh còn khó hơn rất nhiều. Do đó, trong thời gian tới, công tác giảm sinh sẽ có sự phân tách rõ ràng, những tỉnh có tổng tỉ suất sinh còn cao như Kon Tum, Hà Giang, Lai Châu, Gia Lai, Quảng Trị,... thì phải làm mạnh công tác giảm sinh để đưa tổng tỉ suất sinh nhanh chóng đạt được mức sinh thay thế. Còn những tỉnh tổng tỉ suất sinh đã thấp như Cà Mau và Bạc Liêu 1,75; Sóc Trăng và Tây Ninh 1,79; Bến Tre 1,81, Long An 1,85,... cần nhanh chóng chuyển hướng sang nâng cao chất lượng dân số.
Xin ông cho biết, việc điều chỉnh tổng tỉ suất sinh sẽ được đề cập trong Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 - 2020 như thế nào?
Chúng tôi đã rất chờ đợi kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 2009, để cập nhật số liệu, điều chỉnh Chiến lược DS/SKSS 2011 - 2020. 53 chỉ tiêu vừa qua rất có giá trị với chúng tôi trong việc đánh giá lại Chiến lược dân số trong giai đoạn vừa qua, định hướng xây dựng Chiến lược trong giai đoạn tới. Đặc biệt chỉ tiêu về tổng tỉ suất sinh rất quan trọng - đánh giá thực chất mức sinh của đất nước ta, giúp chúng ta có cứ liệu khoa học để điều chỉnh mức sinh như thế nào cho hợp lý. Trong việc xây dựng Chiến lược DS/SKSS giai đoạn tới, chúng tôi dự kiến về quy mô dân số sẽ cố gắng kiểm soát mức sinh sao cho tổng tỉ suất sinh giao động ở mức 1,8 - 2 con là vừa. Nếu mức sinh tăng quá 2 con trong thời gian tới sẽ phải đối phó với nguy cơ tăng dân số trở lại. Song nếu thấp dưới 1,8 con sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu dân số sau này. Nó sẽ làm nhanh quá trình già hóa dân số, tỉ lệ người già sẽ tăng lên, thời gian cơ cấu "dân số vàng" (dự kiến kéo dài 30 năm) sẽ ngắn đi và những hệ lụy khác kèm theo như thiếu hụt nguồn lao động, dễ làm gay gắt hơn vấn đề mất cân bằng giới tính... Vì vậy, chủ động điều chỉnh tổng tỉ suất sinh từ 1,8 - 2 con sẽ là một bài toán cần có lời giải một cách hết sức linh hoạt trong thời gian tới. Dù không đặt vấn đề giảm sinh lên hàng đầu song ngành dân số vẫn chú trọng đến công tác KHHGĐ. KHHGĐ vẫn là một yếu tố quan trọng vì nhu cầu này sẽ tăng lên do số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tiếp tục tăng lên trong 10 năm tới.
Bên cạnh việc duy trì mức sinh thấp, hợp lý, chúng ta cần triển khai đồng bộ các lĩnh vực của công tác DS-KHHGĐ, đặc biệt chú trọng từng bước chuyển hướng sang nâng cao chất lượng dân số.
Nhân dịp năm mới Canh Dần, ông có nhắn nhủ gì với những người làm công tác DS-KHHGĐ trong cả nước?
Tôi xin gửi tới toàn thể cán bộ công chức, viên chức và đặc biệt là đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số ở cơ sở lời chúc sức khỏe, gia đình hạnh phúc. Năm mới, tôi mong và tin tưởng chắc chắn rằng toàn thể những người làm công tác dân số đoàn kết, đồng tâm hiệp lực cùng chung chí hướng, quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã giao cho.
Tết Canh Dần: 32% bệnh nhân nhập viện do tai nạn
Thống kê của Bộ Y tế từ báo cáo nhanh của 48 đơn vị cho thấy, có đến 32% tổng số bệnh nhân đến khám tại các BV trong 3 ngày Tết Canh Dần là do tai nạn.
Tai nạn do không đội mũ bảo hiểm tăng
Tính từ mùng 1 đến mùng 3 Tết, có 43.985 trường hợp đến khám tại các BV, tăng 8,8% so với Tết Kỷ Sửu, trong đó có 14.077 trường hợp đến khám cấp cứu do tai nạn và hơn 40% trong số này là do tai nạn giao thông (6.302 trường hợp). Số ca tai nạn giao thông không đội mũ bảo hiểm là 650 ca, tăng 19,5%. Rất nhiều vụ tai nạn giao thông xảy ra do chủ phương tiện lái xe trong tình trạng say rượu, không làm chủ được tay lái...
Cũng theo báo cáo từ Bộ Y tế, Bộ đã chỉ đạo các cơ sở y tế bố trí các kíp trực 24/24 giờ, bảo đảm có đủ khả năng xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu, tai nạn giao thông, sinh đẻ trong những ngày Tết, không được từ chối hoặc để chậm trễ bất cứ trường hợp cấp cứu nào; nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ người bệnh trong dịp Tết Nguyên đán; đã tổ chức chăm sóc, phục vụ chu đáo mọi người bệnh còn nằm lại điều trị tại các bệnh viện hoặc người bệnh vào cấp cứu trong những ngày Tết cả về vật chất và tinh thần.
Theo báo cáo nhanh của 48 đơn vị, trong đó có 17 bệnh viện trực thuộc Trung ương, Hà Nội và 31 Sở Y tế của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tổng số bệnh nhân đến khám trong 3 ngày Tết Nguyên đán tăng 8,8% so với Tết Kỷ Sửu. So với cùng kỳ năm Kỷ Sửu, số bệnh nhân cấp cứu do tai nạn giảm 14,2%. Tổng số bệnh nhân phải nhập viện nội trú là 11.742, so với 3 ngày Tết Kỷ Sửu giảm 22,9% số bệnh nhân phải nhập viện. Trong đó, tổng số ca phải phẫu thuật là 2.098, giảm 15% so với 3 ngày Tết Kỷ Sửu. Tổng số ca tử vong tại bệnh viện là 183, giảm 14,5% so với số ca tử vong 3 ngày Tết năm Kỷ Sửu.
Trong 3 ngày Tết, cả nước không ghi nhận các vụ ngộ độc thực phẩm có nhiều người mắc. Theo báo cáo của các địa phương, 100% số cơ sở vi phạm đã được nhắc nhở, xử lý kịp thời, một số địa phương đã xử lý rất kiên quyết các vi phạm như TP HCM, Hà Nội, Vĩnh Long, Gia Lai, Thái Bình, Quảng Nam. Ngoài việc xử phạt, các địa phương đã kiên quyết tiêu hủy các sản phẩm không đảm bảo VSATTP với tổng số 489 cơ sở có sản phẩm bị hủy (chiếm 24,3%).
Nhiều trường hợp ngộ độc rượu
Theo TS Phạm Duệ, Giám đốc Trung tâm chống độc, BV Bạch Mai, những ngày gần đây, số người ngộ độc rượu đến điều trị tại trung tâm có xu hướng tăng lên. Liên tiếp xảy ra các vụ ngộ độc rượu khiến nhiều bệnh nhân phải nhập viện, có người đã tử vong. Tình trạng này một lần nữa cảnh báo về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán, khi nhu cầu sử dụng rượu của người dân nhiều hơn.
Theo TS Phạm Duệ, điều đáng lo ngại là, nhiều cơ sở sản xuất nhỏ vì lợi ích trước mắt đã sử dụng cồn công nghiệp Methanol pha chế rượu, để giảm giá thành và tạo cảm giác mạnh cho người uống. Khi sử dụng những loại rượu này, người uống có thể bị hôn mê sâu, tụt huyết áp, mù mắt, thậm chí dẫn đến tử vong. Theo các chuyên gia y tế, ngay cả khi sử dụng những loại rượu có chất lượng tốt, nhưng uống quá liều lượng cũng sẽ có tác hại đến sức khoẻ.
TS. BS Nguyễn Kim Sơn - Phó Giám đốc Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai cho biết, những ngày trước Tết trung bình có khoảng 12 - 15 ca nhập viện mỗi ngày, khoảng 4- 6 ca trong số đó bị ngộ độc rượu và thực phẩm. Tuy nhiên, từ mùng 1 Tết đến nay mỗi ngày chỉ có 1-2 ca ngộ độc thực phẩm nhập viện, chủ yếu là do dị ứng thức ăn như ba ba, cua. Bác sĩ Sơn cảnh báo, trong thời gian tới, số ca ngộ độc thực phẩm, ngộ độc rượu có thể sẽ tăng mạnh do “Tháng Giêng là tháng ăn chơi”. Điều đặc biệt cần chú ý là phòng chống ngộ độc do rượu, nhất là các loại rượu giả, rượu pha cồn, rượu kém chất lượng.
Để phòng chống ngộ độc rượu, các bác sĩ Trung tâm Chống độc khuyến cáo: Khi có người bị say (ngộ độc) rượu thì người nhà cần chú ý chăm sóc, tuyệt đối không nên để bệnh nhân li bì suốt ngày hoặc suốt đêm.
An ninh thủ đô
Thời tiết thất thường làm tăng nguy cơ bị đột quỵ
PGS-TS Đinh Thị Thu Hương, Viện Tim mạch Việt Nam cho biết, thời tiết lạnh giá, thay đổi thất thường như ở miền Bắc những ngày này khiến số bệnh nhân bị đột quỵ (tai biến mạch máu não) tăng lên.
Những bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp thì nguy cơ bị đột quỵ cao nhất vì 80% trường hợp đột quỵ do nguyên nhân này. Đặc biệt, tình trạng tai biến mạch máu não rất dễ xảy ra nếu người bệnh có sẵn bệnh lý đái tháo đường hoặc rối loạn chuyển hóa lipid (tăng mỡ máu). Bệnh chủ yếu gặp ở người già, nhưng người trẻ cũng có thể mắc.
TS Hương khuyến cáo, khi thấy các biểu hiện đột ngột như yếu nửa người, nói ngọng hoặc không nói được; tê cứng hoặc đau nửa mặt, chân, nửa người; nhìn không rõ, đau đầu dữ dội, nôn mửa, có lúc thở nhanh dồn dập, có cơn ngừng thở ngắn hoặc hôn mê... nên đưa ngay bệnh nhân đến BV càng sớm càng tốt. Khi di chuyển, nên để bệnh nhân trên mặt phẳng, nghiêng mặt sang một bên, nới bớt quần áo cho thoáng.
Lao động
TP Hồ Chí Minh: 140 công dân mới chào đời trong ngày mùng một tết
Theo thống kê của hai BV phụ sản lớn nhất tại TPHCM là Từ Dũ và Hùng Vương, trong ngày mùng một tết, số trẻ chào đời tại hai BV này lên đến 140 trẻ và chỉ bằng 1/2 so với ngày bình thường.
Những cháu bé chào đời vào những khoảnh khắc đầu tiên của năm Canh Dần tại hai BV trên đều là bé trai. Theo một BS tại BV Từ Dũ, vào những ngày cận tết, số lượng các sản phụ được người nhà đưa đến BV yêu cầu cho sinh mổ, mặc dù chưa đến ngày tăng đột biến. Tuy nhiên, các BS đã từ chối khi biết được nguyên nhân “bắt con sớm” là do gia đình sợ con cái “cao số” và khổ khi sinh năm Canh Dần.
Những tín hiệu vui từ Bệnh viện Bạch Mai
Khoảng 600 bệnh nhân nặng phải ở lại Bệnh viện Bạch Mai trong những ngày tết, 200 bác sĩ, y tá, nhân viên phải trực tết để sẵn sàng phục vụ bệnh nhân bất kể ngày, đêm. Không chỉ lo chữa bệnh, mà bệnh viện (BV) còn lo ăn cho bệnh nhân (BN) trong những ngày tết... Vào những ngày sau tết bệnh viện Bạch Mai (BVBM), khai trương khu nhà lưu trú cho người nhà BN nghèo... Đó là những công việc bộn bề trong những ngày tết ở BVBM.
Những kỳ tích cứu sống bệnh nhân
Mỗi giờ, mỗi ngày rất nhiều ca bệnh nặng, nguy kịch được chuyển đến BVBM. Có những ca bệnh tưởng phải bó tay, nhưng các bác sĩ (BS) của BVBM đã dốc lòng cứu chữa giúp họ qua khỏi trở về với cuộc sống. Làm được rất nhiều, nhưng để nói về những thành công đó thì các BS rất khiêm tốn.
TS Đỗ Doãn Lợi – Phó Giám đốc BVBM - cho biết: Nhờ sự phối hợp các chuyên khoa, sử dụng các phương tiện hiện đại và các kỹ thuật mới đã cứu sống được nhiều BN nặng. Điển hình là sản phụ Trần Thị Thu Trang bị xuất huyết, phải truyền 64 lít máu và đã qua khỏi. Hai mẹ con sản phụ Phạm Thị Lan Anh (23 tuổi) bị nhiễm cúm A/H1N1 với tổn thương phổi nặng, phải mổ lấy thai nhi, mẹ thở máy... sau 8 ngày điều trị tích cực đã thoát chết và ra viện trong niềm hạnh phúc...
Tại Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu, nhờ đưa vào sử dụng kỹ thuật chụp PET/CT đã giúp chẩn đoán chính xác và điều trị thành công cho một số ca ung thư nặng. TS Mai Trọng Khoa – Giám đốc trung tâm - cho biết, có BN bị ung thư phổi giai đoạn 3 đã di căn não nhờ chụp PET/CT đã xác định rõ vị trí khối u rồi sau đó dùng xạ trị điều biến cường độ liều. Kết quả sau điều trị khối u đã hết hẳn và BN trở lại cuộc sống bình thường...
Phát triển kỹ thuật mới tại BVBM đang được ưu tiên hàng đầu. Những kỹ thuật mới đã mang lại hiệu quả lớn trong chẩn đoán và điều trị như: Xạ trị điều biến liều điều trị ung thư, thay huyết tương cho BN ngộ độc, nội soi màng phổi, đặt Stent nội khí phế quản trong điều trị khối u và sẹo hẹp khí phế quản, điều trị rung nhĩ bằng năng lượng RF qua hệ thống lập bản đồ 3 chiều các buồng tim, sinh thiết phần mềm bằng súng Fastgun dưới hướng dẫn của siêu âm...
Và đặc biệt nhất là đơn vị gene trị liệu chuyên nghiên cứu, ứng dụng các quy trình, kỹ thuật gene trị liệu để chẩn đoán và điều trị các bệnh ung thư, tim mạch, huyết học..., ghép tạng, ghép tuỷ, tế bào gốc... sẽ giúp người bệnh chữa trị trong nước mà không cần phải ra nước ngoài. Điều quan trọng hơn cả là tay nghề và uy tín của các BS BVBM ngày càng được người bệnh ghi nhận và tin cậy.
Người bệnh sẽ đỡ khổ hơn
TS Nguyễn Quốc Anh - Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai - khẳng định, trong năm 2010, BV sẽ có rất nhiều đổi mới nhằm phục vụ BN tốt nhất và nâng tầm BV xứng đáng với danh hiệu BV đa khoa hoàn chỉnh hạng đặc biệt. BV đã cải cách thủ tục hành chính theo hình thức “một cửa”, tức là người bệnh vào viện và ra viện chỉ làm thủ tục qua một cán bộ y tế, chỉ có một lần thu tiền và không phân biệt BN có bảo hiểm y tế hay khám dịch vụ. Việc này sẽ giải quyết được tình trạng xếp hàng kéo dài chờ đợi cho BN.
Số phòng khám tại khoa Khám bệnh đã tăng từ 36 phòng lên 75 phòng và được bố trí thuận tiện. Một khu nhà trọ cho những người nhà BN nghèo sắp được khai trương đã nói lên sự quan tâm của BV đến người nhà BN nghèo. BV cũng bắt đầu triển khai lưu hồ sơ bệnh án điện tử giúp BS tìm thông tin nhanh chóng, chính xác, biết tiền sử và diễn biến bệnh của BN, hỗ trợ tìm kiếm các tương tác thuốc, làm tư liệu nghiên cứu khoa học, kết nối, trao đổi thông tin giữa các BS và in đơn thuốc rõ ràng.
Để giảm tình trạng quá tải BN, tháng 1.2010, BVBM đã khởi động dự án xây dựng 8 BV vệ tinh của BVBM, gồm: BV Hà Đông (Hà Nội), BV Đa khoa Lào Cai 2, BV Đa khoa Nghệ An, BV Đa khoa Bắc Ninh, BV Đa khoa Nam Định, BV Đa khoa Sơn La, BV Đa khoa Tuyên Quang và BV Đa khoa Phố Nối (Hưng Yên).
Với đề án này, các chuyên gia nội khoa của BVBM sẽ đào tạo, cập nhật kiến thức điều trị cho hệ thống BV vệ tinh về cấp cứu hồi sức, nội khoa, truyền nhiễm, chống nhiễm khuẩn, chẩn đoán hình ảnh... Đây là dự án BV vệ tinh đầu tiên trong lĩnh vực nội khoa sẽ góp phần giảm tải các BN về tuyến trên...
Một thành công lớn nữa là 126 BS của BVBM đã luân phiên về 18 BV tuyến dưới, giúp cho rất nhiều người bệnh được chữa bệnh ngay tại địa phương và mang đến cho các BS tuyến dưới những kỹ thuật mới trong khám - chữa bệnh...
Là BV đa khoa tuyến cuối nên BV Bạch Mai luôn trong tình trạng quá tải, trong khi số lượng BN đến khám và điều trị nội trú vẫn ngày một tăng cao. Công suất giường bệnh luôn ở mức gần 200%, BN phải nằm ghép 2-3 người/giường bệnh... Song BVBM vẫn luôn song hành cùng người bệnh để giúp họ được chữa bệnh tốt nhất. Điều đó đã tạo nên uy tín của BVBM .
Tuổi trẻ
Hồi sinh từ cõi chết
Ngôi nhà nhỏ nằm trên đường Trần Văn Đang, quận 3, TP.HCM vốn là một tiệm sửa xe gắn máy, nhìn bề ngoài rất bình lặng. Nhưng chỉ cách đây hơn năm tháng, các thành viên trong gia đình này vừa trải qua một cơn biến động mà họ tưởng như đã mất đi người thân yêu của mình chỉ trong chớp mắt...
"Tôi muốn họ đặt tất cả niềm tin vào bác sĩ và luôn hi vọng cũng như hãy nghĩ đến những người thân yêu nhất của mình. Đó là liều doping kỳ diệu nhất, không tốn bất kỳ đồng bạc nào mà những bệnh nhân trong cơn thập tử nhất sinh có được!" Bác sĩ Cao Văn Thịnh thổ lộ như vậy trong buổi tặng quà, tiễn các bệnh nhân về ăn tết với gia đình
Theo bệnh án của khoa lồng ngực - mạch máu Bệnh viện Nhân dân 115, một ngày cuối tháng 8-2009 các bác sĩ tiếp nhận một bệnh nhân bị tai nạn trong sinh hoạt hằng ngày rất nguy kịch. Đó là anh Đ.T.P., sinh năm 1978, ngụ tại đường Trần Văn Đang. Đ.T.P. nhập viện trong tình trạng bị đứt động mạch cảnh ở cổ, máu phun lên ướt đẫm mặt mũi và chiếc áo đang mặc. Trưởng kíp mổ, bác sĩ Cao Văn Thịnh bắt đầu ca mổ, chỉ kịp trấn an mẹ P.: “Xuống bàn mổ mới biết...”.
Cuộc vật lộn giành lại sự sống cho P. kéo dài từ 14g tới gần 20g. Bà H.T.Y., mẹ của P., không giấu được sự hãi hùng trên nét mặt khi kể lại: “Khoảng thời gian sáu giờ chờ đợi bên ngoài phòng phẫu thuật cứ mòn mỏi từng giây từng phút. Chưa bao giờ chúng tôi thấy run sợ như thế!”.
Theo bác sĩ Thịnh, động mạch cảnh dẫn máu lên nuôi não, chỉ cần bị tổn thương đã gây liệt tạm thời và rất dễ tử vong do mất máu trước khi kịp tới bệnh viện. Câu chuyện gay cấn của Đ.T.P. chính là lúc gia đình đưa P. tới bệnh viện. Bà Y. kể: “Ngay trên đường đưa P. đến bệnh viện, cả nhà thêm một phen hú hồn. Thằng anh nó chở đi giữa đường thì xe gắn máy hết xăng. Gọi không có chiếc taxi nào dừng lại, có lẽ vì nhìn thằng nhỏ máu me đầy người... May có chiếc xe ba gác máy chạy qua mới xin đi nhờ đến bệnh viện được”.
Hiện sức khỏe của P. đã hoàn toàn hồi phục. P. là kỹ sư điện máy nhưng do sau ca mổ cần theo dõi thêm nên tạm thời anh ở nhà phụ công việc của gia đình ở tiệm sửa xe gắn máy. Người thanh niên vốn ít nói, ít biểu lộ tình cảm này đã không giấu nổi niềm vui, xúc động trước vị bác sĩ đã cứu sống anh và gọi bác sĩ là “thầy” ngay khi vừa rời phòng hồi sức sau mổ. P. giải thích lý do thay đổi cách xưng hô: “Người ta tuy không dạy dỗ, nuôi nấng mình nhưng đã sinh ra mình lần thứ hai. Thầy giờ cũng như cha mẹ mình vậy”…