Liên họ ve (superfamily) gồm có 3 họ (Họ Ixodoidea, Argasidae và họ Nuttalliellidae) thuộc bộ Ixodida. Trong đó, có 2 họ ve có thể phân biệt rõ ràng gồm Ve cứng (Ixodiae) có khoảng 750 loài thuộc 14 chi trong đó chi Amblyomma có số lượng loài lớn nhất 130 loài và ve mềm (Argasidae) có khoảng 193 loài. Ngoài ra còn có họNuttalliellidae, chỉ có một loài ve Nuttalliella namaqua rất hiếm thấy ởchâu Phi, tất cả đều thuộc bộ Ixodida.
Khu hệ ve châu Á cũng khá phong phú và được nhiều tác giả nghiên cứu đến. Ở Đông Nam Á có hơn 50 loài thuộc 9 giống. Trung Quốc đã phát hiện hơn 80 loài thuộc 10 giống. Malaysia, Broneo có hơn 31 loài thuộc 8 giống. Riêng Indonesia có hơn 30 loài thuộc 7 giống. Philippin có hơn 21 loài thuộc 9 giống. Ở Đông Dương có hơn 40 loài thuộc 10 giống (Toumanoff,1944).
Ở Việt Nam đã phát hiện 65 loài và phân loài ve thuộc 9 trong hai họ. Ve không phải là lớp côn trùng (lớp Arachnida) nhưng chúng dễ dàng nhận biết vì có 4 đôi chân ở ve trưởng thành và thiếu sự phân đốt rõ ràng của cơ thể (Phan Trọng Cung và Đoàn Văn Thụ, 2001)
Đặc điểm chung của ve
Ve có kích thước nhỏ, với chu kỳ sống rất phức tạp. Bằng các mẫu hóa thạch, các nhà khoa học cho biết ve đã xuất hiện cách đây khoảng 90 triệu năm.
Ve (Ixodoidea) là những loài chân đốt hút máu người và động vật có xương sống ở cạn, từ lưỡng thê đến các động vật có vú, trừ cá sống ở nước. Phát hiện về vài trò truyền bệnh của chúng từ 100 năm trước công nguyên. Những bệnh ở người do ve được biết rõ nhất là sốt hồi quy do ve, sốt đốm vùng núi đá, sốt Q và bệnh Lyme. Ve cũng là vật truyền nhiều bệnh cho động vật nuôi và có thể gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế.
Ve có vòng đời gồm một giai đoạn ấu trùng 6 chân và một hoặc nhiều giai đoạn thiếu trùng 8 chân. Các giai đoạn thiếu trùng giống với trưởng thành và ở mỗi giai đoạn cần hút máu trước khi phát triển giai đoạn tiếp theo. Ve trưởng thành sống được vài năm và trong trường hợp không có thức ăn nó có thể nhịn đói, sống được vài năm. Cả ve được và ve cái đều hút máu, ve đực đốt máu không thường xuyên bằng ve cái, và cả ve đực và ve cái đều có thể là vật truyền bệnh. Vi khuẩn gây bệnh không chỉ truyền từ người này qua người khác qua máu khi bị đốt, mà ve cái cũng có thể truyền tác nhân gây bệnh cho thế hệ sau.
Dấu hiệu do ve đốt
Khi bị ve đốt lúc đầu thường không gây đau, sau khi hút máu sau chúng rời khỏi cơ thể và để lại vết đốt. Sau đó vết đốt sẽ bị ngứa, nóng rát và đỏ. Một số trường hợp có thể nhạy cảm, dị ứng và phát ban, khó thở, nôn, suy nhược, sưng hoặc tê liệt. Với những trường hợp này cần phải đến cơ sở y tế để chẩn đoán và điều trị kịp thời. Tuy nhiên phần lớn vết đốt không có triệu chứng và nhiều người không nhận ra bị ve đốt.
Hình thái và sinh học ve thân mềm
Cơ thể ve có 2 phần: thân và đầu giả (hoặc gọi là vòi), ve trưởng thành có đặc điểm bên ngoài dẹt, hình bầu dục và có cơ thể dai, nhăn nheo. Mặt thân có lớp cutin không bằng phẳng mà có những hình dạng khác nhau thay đổi tùy loài như nếp gấp nhỏ, u lồi, hõm,... Phần phụ miệng nằm ở phía dưới cơ thể và không nhìn thấy từ phía trên. Ve trưởng thành không còn mai lưng như ve cứng, chỉ còn lại những phần cutin riêng lẽ.
Trứng được đẻ ở những chỗ ve trưởng thành trú ẩn như các khe kẽ trên tường và sàn nhà, trong đồ dùng. Cả ấu trùng, thiếu trùng và ve trưởng thành đều có hoạt động tìm vật chủ để đốt máu, lâu chừng 30 phút, ve rơi xuống đất. Chỉ có các loài thuộc giống Ornithodoros, ấu trùng không hoạt động. Ve mềm hoàn thành vòng đời từ 3-12 tháng, ve đực cái giao phối ngay trên vật chủ. Mỗi đời đẻ 100-200 trứng, cả đời đẻ khoảng 1200 trứng. Hầu hết các loài đều có thể sống được hơn một năm giữa hai lần đốt máu và có một vài loài có thể sống hơn 25 năm.
Ve mềm sống cách biệt với vật chủ và thấy phổ biến nhất là ở tổ và nơi ở của động vật mà chúng đốt máu. Một vài loài như ve gà, ve bồ câu (các loài Argas) có thể đốt người khi không có vật chủ ưa thích.
Những loài thường đốt máu người được tìm thấy ở xung quanh làng và ở trong nhà. Tập tính của chúng giống với rệp là: ve thường rời khỏi vị trí trú ẩn vào ban đêm để đi tìm đốt máu người và động vật. Một số loài thưởng ở trên đường đi tron các nhà nghỉ, những nơi cắm trại, các hang động, khe kẽ.  |
Ve ký sinh trên vật chủ |
Hình thái và sinh học ve thân cứng
Ve trưởng thành có hình bầu dục, dẹt và dài, khoảng 2 – 23 mm tùy thuộc vào từng loài. Có thể nhìn thấy phần phụ miệng ở trước cơ thể, khác với ve mềm, ve cứng có một tấm hình khiên gọi là scutum bằng kitin cứng ở sau đầu kéo dài về phần thân và cấu trúc này chỉ có ở giai đoạn thiếu trùng. Đốt cuối của đôi chân trước có cơ quan cảm giác (cơ quan Haller) để đánh hơi tìm mồi.
Phần đầu giả của ve cứng gồm hai phần gốc đầu giả và vòi. Gốc đầu giả có hình dạng rất khác nhau, nhìn mặt lưng có hình 4 cạnh hoặc 6 cạnh, hình thang, hình chữ nhật hay hình tam giác. Hình dạng đầu gốc là đặc điểm để phân loại. Vòi gồm có một đôi kìm, một tấm dưới miệng và một đôi xúc biện.
Vòng đời phát triển trải qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng – trưởng thành. Ve cái cả đời chỉ đẻ 1 lần, còn ve đực thường chết sau khi giao phối. Thời gian hoàn thành vòng đời phát triển của ve tuỳ thuộc vào thức ăn và nhiệt độ môi trường, kéo dài 2-3 tháng hoặc hơn.
Khu vực phân bố của ve tùy thuộc vào vật chủ. Có loài gặp nhiều ở rừng rậm, đồng cỏ; có loài ở xung quanh chuồng gia súc,... Những động vật là vật chủ của ve gồm chuột, sóc, trâu, bò, ngựa, chó,... và người. Trên vật chủ ve thường tìm nơi da ẩm như: cổ, nách, bẹn, sau tai...để ký sinh hút máu.
Ve cái trưởng thành bò lên cây cỏ đợi vật chủ thích hợp, ở lại trên vật chủ khoảng 1 – 4 tuần, sau đó rơi xuống đất, tìm chỗ thú ẩn dưới các khe đá, lá cây và đẻ trứng. Thời gian đẻ trứng kéo dài trong 14-20 ngày với số lượng từ 2000-8000 trứng và sau 2-7 tuần trứng nở ra ấu trùng. Kích thước ấu trùng rất nhỏ dài từ 0.5 đến 1.5 mm; chúng bò lên cỏ cây, đợi khi một vật chủ thích hợp đi qua và chúng bò bám vào vật chủ, tấn công chúng ở những chỗ đốt máu thích hợp như ở tai và mi mắt. Sau một vài ngày, khi đã rơi máu cúng rơi xuống đất tìm nơi trú ẩn và lột xác thành con trưởng thành.
Hầu hết các ve cứng đốt 3 loài vật chủ khác nhau: vật chủ cho các giai đoạn ấu trùng, thiếu trùng và trưởng thành. Tuy nhiên một vài loài chỉ đốt một hoặc hai vật chủ. Vì được bám vào vật chủ một vài ngày nên ve cứng có thể được mang đi rất xa. Sự kết hợp giữa việc đốt máu những vật chủ khác nhau với việc phát tán khá xa, phần nào giải thích được tầm quan trọng trong vai trò truyền bệnh của loài này.
Mùa phát triển của ve ở Việt Nam khác nhau tuỳ từng loài:Haemaphysalis,Amblioma,Dermacentorphát triển vào hè thu (tháng 4 đến tháng 8);Boophylusphát triển quanh năm nhưng nhiều vào đông xuân.
Một số bệnh do ve truyền
Sốt hồi quy: bệnh do vi khuẩn thuộc giống Borrelia gây ra. Nó được lây truyền bởi ve mềm hút máu thuộc giống Ornithodoros ở nhiều nước nhiệt đới, cận nhiệt đới và cũng xảy ra ở châu Âu và Bắc Mỹ. Ve thường đốt máu nhanh chóng vào ban đêm trong nhà hoặc gần nhà và sau đó rời khỏi vật chủ.
Bệnh thể hiện qua các cơn sốt đan xen với không sốt. Tỷ lệ tử vong khoảng 2 đến 10% nếu không được điều trị.
Hội chứng liệt do ve: bệnh này do ve cứng chích nước bọt có độc tố vào người. Một số độc tố có thể gây ra hội chứng ở người và động vật được gọi là hội chứng liệt. Nó xuất hiện sau 5 – 7 ngày khi ve đốt máu, gây tê liệt ở chân và ảnh hưởng đến khả năng nói, nuốt và thở. Bệnh xảy ra rộng rãi trên thế giới và phổ biến, nguy hiểm nhất ở trẻ em dưới 2 tuổi. Điều trị bằng cách lấy ve ra khỏi cơ thể.
Sốt Rickettsia do ve truyền: Nhóm bệnh này liên quan chặc chẽ đến vi khuẩn Rickettsia được lan truyền bởi ve đốt hoặc xác, phân ve.
+ Bệnh sốt phát ban do Rickettsia rickettsii xảy ra ở Brazil, Canada, Việt Nam,..
+ Bệnh Sốt phát ban Siberie: mầm bệnh là R. sibirica do ve Dermacentor, Haemaphysalis,Rhipicephalustruyền. Bệnh phân bố ở Nhật Bản, Liên Xô cũ và vùng Thái Bình Dương. Bệnh do loài ve rừng châu á Dermacentor silvarum truyền.
+ Sốt Q: do mầm bệnh làR. burnetti (Coxiella burnetti). Bệnh phát hiện lần đầu tiên ở vùng Queensland. Hiện bệnh phân bố rộng rãi trên toàn thế giới. Bệnh do veRhipicephalus, Dermacentortruyền. Bệnh cũng có thể lây qua đường hô hấp và tiêu hóa. Với các triệu chứng đột nhiêt sốt kéo dài vài tuần lễ, cảm giác khó chịu, đau nhức cơ khớp, đau đầu dữ dội và ớn lạnh. Tỷ lệ tử vong khoảng 15 – 20% nếu bệnh không được chẩn đoán hoặc không được điều trị.
+ Bệnh sốt phát ban doR. australisxảy ra ở vùng Queensland, do loài ve yếmIxodes holocychistruyền. Điều trị: có thể dùng tetracyclin hoặc cloramphenicol.
Bệnh Lyme: là một bệnh nặng và thường gây suy nhược cơ thể, do xoắn khuẩn Borrelia burgdorfrei gây ra. Ở nhiều quốc gia, bệnh Lyme đang gia tăng. Bệnh Lyme phát hiện rõ ràng nhất vào năm 1975, đây là bệnh cấp tính là một bệnh giống như cúm có đặc điểm là các nốt ban đỏ lan rộng ở 50% số bệnh nhân, kèm theo sốt, mệt mỏi, đau nhức cơ bắp. vài tuần hoặc thậm chí vài tháng sau khi bị ve đốt, bệnh nhân có thể cảm thấy sưng và đau ở những khớp lớn, viêm não, liệt mặt, tổn thương mắt và viêm cơ tim. Sau đó, có thể là vài năm sau khi bị ve đốt, có thể bị mòn sụn (viêm khớp và rối loạn chức năng thần kinh cơ). Bệnh lưu hành chủ yếu ở các vùng ôn đới phía bắc ban cầu, gồm cả Trung Quốc, châu Âu, Hoa Kỳ, Liên Xô cũ và cũng đã xuất hiện ở Việt Nam.
Bệnh chủ yếu do ve Ixodes truyền, phổ biến nhất là vào mùa hè, khi có nhiều thiếu trùng ve. Các loài thú gặm nhấm nhỏ đặc biệt là chuột đóng vai trò nguồn bệnh trong khi các thú lớn chủ yếu đóng vai trò vật chủ nuôi giữ các quần thể ve.
Bệnh viêm não vi rút:là nhóm bệnh do virus gây nên viêm não cấp, viêm tủy sống và màng não. Các triệu chứng thay đổi tùy theo dạng nhiễm bệnh. Trường hợp nặng có thể gây đau đầu dữ dội, sốt cao, buồn nôn, hôn mê và tử vong. Bệnh được lan truyền do ve đốt hoặc sử dụng sữa của động vật nhiễm bệnh. Bệnh không có thiếu điều trị nhưng hiện nay đã có vaccine chống lại một số bệnh này. Dự phòng bằng cách tránh ve đốt và nhanh chóng gỡ ve ra khi bị đốt.
Bệnh Tularaemia: còn được gọi là bệnh sốt thỏ, sốt ruồi hưu do Francisella tularensis gây ra. Bệnh được truyền do ve hoặc ruồi hươu (deerflies) đốt, hoặc do va chạm với những vật nhiễm bệnh như thỏ hoặc các động vật đã săn bắn được khác. Thợ săn và thợ rừng là những người có nguy cơ nhiễm bệnh cao nhất. Người mắc bệnh biểu hiện các triệu chứng như đau đầu, ớn lạnh, sốt và sưng hạch bạch huyết. Bệnh xảy ra ở Châu Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ,..
Biện pháp kiểm soát và phòng chống
Những người đi qua khu vực rầm rạp, đồng cỏ và rừng cũng như các khu du lịch sinh thái luôn có nguy cơ cao; Những cư dân sống trong khu vực bao quanh bởi các đồng cỏ hoặc rừng cũng là người có nguy cơ.
Vì vậy, khi làm việc ở rừng và thực địa cố gắng tránh việc ve đốt bằng cách bỏ áo vào quần, quần bỏ vào trong ủng và mang bao tay. Thường xuyên kiểm tra trên quần áo để phát hiện và loại bỏ ve. Khi bị ve đốt, nhẹ nhàng lấy ve ra khỏi cơ thể bằng cách lấy một đầu kim hơ nóng, thấm nhẹ vào ve bằng chloform ether hoặc chất gây mê khác. Hoặc đốt vào thân ve để ve tự nhả ra, tránh đứt mạch làm đầu giả của ve bị đức lại trong da gây nhiễm trùng.  |
| Loại bỏ nhanh chóng ve truyền bệnh Lyme |
Dùng các loại hóa chất xua côn trùng như deet, benzyl benzoat bôi lên chỗ da hở hoặc dùng các loại hóa chất thuộc nhóm Pyrethroid để tẩm quần áo.
Động vật nuôi thường là vật chủ của ve. Ve có thể đốt người, truyền bệnh cho người và động vật. Xử lý hóa chất trực tiếp lên cơ thể của động vật này dưới dạng rắc bột, phun, tắm nước có thể rất hiệu quả.
Sử dụng hóa chất diệt phun tồn lưu trong nhà và nơi ở của động vật như phun vào nền nhà, cổng, hành lang, cũi chó và các địa điểm khác mà gia súc ngủ.
Phun hóa chất chống ve trực tiếp trên diện rộng vào nơi tự nhiên của chúng trong rừng và cánh đồng có thể phòng trách các vụ dịch do ve truyền như bệnh Lyme. Hoặc phun bằng máy động cơ hoặc máy phun sương trên phạm vi hẹp.