Vùng đệm Vườn quốc gia (VQG) Kon Ka Kinh có diện tích tự nhiên 118.598 ha, nằm về phía Đông Bắc tỉnh Gia Lai, thuộc địa bàn của 3 huyện Kờ Bang, Đắc Đoa và Mang Yang; trong đó 4 xã Đắc Roong, K’Roong, Kon Pne và Lơ Ku là các xã vùng sâu, vùng xa của huyện K Bang.
Địa hình trong vùng hầu hết thuộc kiểu địa hình núi có mức độ chia cắt phức tạp, sinh cảnh chủ yếu là rừng tự nhiên chiếm 95,4% diện tích; khí hậu một năm có hai mùa rõ rệt mùa mưa và mùa khô, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau; tổng lượng mưa hàng năm trung bình từ 2.000-2.500 mm; nhiệt độ trung bình hàng năm từ 21-250C; độ ẩm không khí bình quân năm 80%. Đây là những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho muỗi Anopheles và bệnh sốt rét phát triển, lại là nơi cư trú của phần lớn người dân tộc thiểu số trong vùng, trong đó dân tộc thiểu số chính là Bana; nhiều hộ gia đình còn sống du canh du cư, đi rừng, ngủ rẫy… gây ra sức ép rất lớn đối với công tác bảo tồn VQG, cũng như công tác phòng chống sốt rét cho cộng đồng. Theo số liệu thống kê năm 2005 chỉ số ký sinh trùng sốt rét/lam xét nghiệm của huyện K Bang (2,89%) cao hơn huyện Măng Yang (0,79%) và Đăk Đoa (0,42%).
Từ những đặc điểm nêu trên, Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn có một số nhận xét từnhững kết quả bước đầu điều tra nghiên cứu muỗi Anopheles để bổ sung dẫn liệu làm cơ sở đề xuất các biện pháp phòng chống sốt rét ở VQG Kon Ka Kinh như sau:
Kết quả điều tra côn trùng sốt rét ở các điểm:
Bằng 6 phương pháp điều tra theo quy trình của Tổ chức Y tế thế giới (1994) và của Viện Sốt rét-KST-CT Hà Nội (1971) ở cả hai xã Đắc roong và K Roong thu được tổng cộng 796 cá thể muỗi Anopheles trưởng thành bao gồm 16 loài Anopheles, trong đó có mặt cả 2 loài muỗi truyền bệnh sốt rét chínhlà An. dirus, An. minimus và một số véc tơ phụ An. aconitus, An. jeyporiensis và An. maculatus.
- Hai lòai An. splendidus và An. maculatus có số lượng muỗi thu thập được là cao nhất: An. splendidus có 208 cá thể và An. maculatus có 124 cá thể.
- Véc tơ sốt rét chính An. minimus cũng bắt gặp ở các điểm điều tra số lượng cao: 89 cá thể. Tuy An. dirus chỉ thu thập được 6 cá thể, nhưng sự có mặt đồng thời của 2 lòai véc tơ sốt rét chính này trên cùng 1 khu vực và trong cùng một thời điểm điều tra là ít gặp ở các nơi khác. Điều này chỉ ra mối nguy cơ lan truyền sốt rét cao ở địa phương này.
-Về mật độ muỗi truyền bệnh ở xã K Roong qua các phương pháp điều tra chỉ thu thập được muỗi trong 2 phương pháp bẫy đèn trong, ngoài nhà và ở phương pháp soi chuồng gia súc. Số lượng muỗi thu thập được ít, trong đó có mặt các véc tơ sốt rét: An. minimus, An. aconitus, An. jeyporiensis và An. maculatus, nhưng chỉ với mật độ thấp. Trong khi đó tại xã Đắc Roong số lượng muỗi thu thập được nhiều, đặc biệt là các lòai véc tơ sốt rét đốt người ở ngòai nhà với mật độ rất cao: An. minimus 3 con/người/đêm, An. dirus: 1,5 con/người/đêm. Tuy nhiên, qua các phương pháp mồi người trong nhà và soi trong nhà ban ngày, không phát hiện được muỗi vào nhà đốt người, cũng như trú đậu tiêu máu trong nhà.
Kết quả thử nhạy cảm của muỗi Anopheles với các hóa chất
Tiến hành thử nghiệm nhạy/kháng với hóa chất diệt muỗi theo qui trình thử nhạy/kháng và chỉ số đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới (WHO/CDS/CPC/MAL/98.12) cho thấy muỗi An. splendidusus vẫn còn nhạy cảm với hóa chất Lambda Cyhalothrine 0,05% (ICON) 100%, hai loài véc tơ sốt rét là An. minimus và An. maculatus có thể đã kháng với hóa chất, vì tỷ lệ chết dưới 98%, cần được tiếp tục giám sát mức độ nhhạy kháng với hóa chất diệt côn trùng.