Muỗi truyền bệnh sốt rét (hay còn gọi là véc tơ sốt rét) là một trong 3 yếu tố tạo nên sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét, do đó công tác phòng chống véc tơ là một trong những biện pháp quan trọng trong Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét. Để có cơ sở lựa chọn và điều chỉnh các biện pháp phòng chống véc tơ sốt rét kịp thời, phù hợp và hiệu quả cho từng vùng và từng giai đoạn; công tác giám sát véc tơ sốt rét là một họat động không thể thiếu trong giám sát dịch tễ sốt rét giúp chúng ta nắm bắt được tình hình biến động của các quần thể véc tơ và các yếu tố ảnh hưởng đến véc tơ ở các địa phương.
Những năm qua, công tác phòng chống véc tơ sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã góp phần tích cực trong việc thực hiện các chỉ tiêu giảm mắc sốt rét, giảm tử vong sốt rét và khống chế dịch sốt rét xảy ra. Tuy nhiên, vì thành phần loài véc tơ khác nhau ở mỗi địa phương và vai trò truyền bệnh cũng như tập tính của chúng cũng có sự khác biệt ở các vùng. Thêm vào đó, dưới tác động của hóa chất diệt côn trùng được sử dụng rộng rãi trong y tế và nông nghiệp, nhiều quần thể muỗi Anopheles đã thay đổi tập tính tránh thuốc và phát triển tính kháng lại với hóa chất sử dụng trong chương trình phòng chống sốt rét. Ngoài ra, Miền Trung-Tây nguyên là khu vực có sinh địa cảnh và các yếu tố thời tiết biến động do những thay đổi của khí hậu, đặc biệt là sự tác động mạnh mẽ của con người vào môi trường tự nhiên (phá rừng, trồng cây công nghiệp, xây dựng thủy lợi, thủy điện…) làm biến động của các quần thể véc tơ và kéo theo sự biến đổi lan truyền sốt rét. Vì vậy, công tác giám sát véc tơ cần phải thực hiện thực hiện thường xuyên và liên tục.  |
| Nhà rẫy của người dân tộc Bana ở Phú Yên |
Giám sát véc tơ giúp chúng ta biết được: thành phần lòai véc tơ, mật độ, mùa phát triển, tập tính đốt mồi, mức độ tiếp xúc véc tơ với người, tập tính trú đậu, sự phân bố, ổ đẻ ưa thích, tỷ lệ nhiễm thoa trùng, mức độ nhạy cảm với hóa chất… Kết hợp với các thông tin về điều kiện tự nhiên: sinh địa cảnh, khí hậu; và những điều kiện kinh tế-xã hội: tỷ lệ màn, tập quán, nghề nghiệp, hiểu biết phòng chống sốt rét của người dân … Đó chính là những thông tin quan trọng, giúp cho việc lựa chọn, áp dụng, cũng như điều chỉnh các biện pháp phòng chống véc tơ một cách thích hợp. Vì vậy, công tác giám sát véc tơ cần phải được triển khai ở mọi địa phương và phải được thực hiện bởi tất cả các tuyến từ các Viện đến tỉnh, huyện và cả tuyến cơ sở.
Trong năm 2006, qua kết quả các đợt giám sát véc tơ của Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn và các Trung tâm phòng chống sốt rét, Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh thấy hai véc tơ sốt rét chính ở Việt Nam là An minimus và An. dirus có mặt ở nhiều nơi với mật độ cao, đặc biệt là An. dirus thu thập nhiều ở trong nhà rẫy và chúng họat động rất sớm. Như vậy, rõ ràng việc phun hóa chất tồn lưu trên tường vách ở những khu dân cư không có tác dụng đối với những quần thể muỗi trong rừng này; còn biện pháp tẩm màn với hóa chất chỉ có tác dụng khi người dân mang theo màn vào rẫy, tuy nhiên biện pháp này cũng hạn chế, vì muỗi An. dirus họat động sớm (lúc người dân còn sinh họat, chưa ngủ và mắc màn). Điều này, đã đặt ra cho những người làm công tác phòng chống véc tơ trong khu vực cần thiết phải tìm kiếm và đề xuất những biện pháp bảo vệ cá nhân hữu hiệu cho những đối tượng nguy cơ mắc sốt rét cao như: dân di cư tự do, người đi rừng, ngủ rẫy … trong tình hình hiện nay.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả của các biện pháp phòng chống véc tơ, cần phải lựa chọn và áp dụng hóa chất, biện pháp phòng chống véc tơ và thời điểm triển khai thích hợp cho từng vùng dịch tễ, từng địa phương và từng thời kỳ nhất định; và việc chỉ định biện pháp phù hợp chỉ có thể dựa trên kết quả của công tác giám sát véc tơ kết hợp với những yếu tố khác như: tỷ lệ ngủ màn, cấu trúc nhà cửa, tập quán sinh họat, làm việc của người dân ở mỗi địa phương.  |
| Nhà rẫy của người dân tộc Bana ở Phú Yên |
Theo Qui định về giám sát dịch tễ sốt rét do Bộ Y tế ban hành 1997, công tác giám sát véc tơ được giao nhiệm vụ cụ thể cho từng tuyến từ cơ sở, tuyến huyện, tỉnh và các Viện. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, công tác giám sát véc tơ sốt rét vẫn còn rất nhiều hạn chế như chỉ tổ chức giám sát ở những điểm nóng và biến động về sốt rét; chưa xây dựng hệ thống theo dõi sự biến động vectơ ở các vùng sốt rét; ở nhiều tỉnh, khoa/tổ côn trùng rất thiếu cán bộ chuyên môn và trang thiết bị vật tư; trong khi đó, tuyến huyện và xã hầu như chỉ phối hợp với tuyến tỉnh, Viện chứ chưa thực hiện được nội dung nào trong công tác giám sát véc tơ theo như qui định; do đó chưa cảnh báo được biến động sốt rét ở các vùng.
Trong những năm tới, các Trung tâm phòng chống sốt rét/Trung tâm y tế dự phòng các tỉnh cần thiết phải củng cố mạng lưới chuyên khoa côn trùng: bổ sung nhân lực, kinh phí họat động, bồi dưỡng chuyên môn, cung cấp vật tư trang thiết bị cho khoa/tổ côn trùng của các tỉnh; xây dựng thí điểm về công tác giám sát véc tơ ở những huyện trọng điểm sốt rét của tỉnh. Là đơn vị chịu trách nhiệm chỉ đạo chuyên môn kỹ thuật ở khu vực, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn sẽ có kế hoạch hỗ trợ các tỉnh phát huy vai trò của màng lưới chuyên khoa côn trùng tuyến tỉnh và hệ thống giám sát véc tơ ở các tuyến cơ sở để mang lại hiệu quả của công tác phòng chống véc tơ sốt rét, góp phần ổn định tình hình sốt rét ở từng địa phương cũng như cả khu vực.