Vai trò của phòng chống vector trong chiến lược PCSR toàn cầu
Chiến lược phòng chống sốt rét (PCSR) toàn cầu gồm bốn nội dung chuyên môn cơ bản: cấp phát thuốc và điều trị cho người bệnh; thực hiện các biện pháp phòng chống hiệu quả lâu dài và có chọn lọc, đặc biệt là phòng chống véc tơ truyền bệnh; phát hiện và kiểm soát các ổ dịch ở vùng có nguy cơ xảy dịch cao; nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển của hệ thống y tế địa phương. Mục tiêu chiến lược PCSR toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) là giảm 50% số tử vong hàng năm do sốt rét vào năm 2010. Các vị nguyên thủ quốc gia châu Phi cũng cam kết sẽ nỗ lực hết mình để đạt được những mục tiêu chung của chiến lược PCSR toàn cầu; trong đó phòng chống vectơ là một phần hết sức quan trọng trong chiến lược này.
Mục đích của chiến lược phòng chống vectơ là giảm tỉ lệ mắc bệnh và tử vong do sốt rét bằng cách hạn chế sự lây lan của căn bệnh này. Để làm được điều này cần có các biện pháp phòng chống vectơ có hiệu quả, được chứng minh qua các thử nghiệm tại thực địa dù đây không phải là một công việc dễ dàng. Môi trường cũng là mối quan tâm cần được xem xét, do đó mục tiêu chính là phòng chống vectơ hiệu quả mà vẫn đảm bảo sự cân bằng về môi trường để nhằm hạn chế việc lạm dụng các hóa chất diệt muỗi.
 Tẩm màn bằng hóa chất diệt muỗi ở Châu phi |
Nghiên cứu ở các quốc gia châu Phi cho thấy bức tranh tổng thể của phòng chống vectơ hiện nay. Về cơ bản, việc thực hiện chiến dịch màn tẩm trên diện rộng nhằm ngăn chặn sự tiếp xúc giữa người và vectơ là nội dung rất được chú trọng. Trong giai đoạn thanh toán sốt rét, DDT được sử dụng rộng rãi; ngày nay, việc sử dụng màn và rèm chống muỗi là biện pháp đáng tin cậy. Cũng có một số biện pháp phòng chống vector khác như phun hóa chất tồn lưu được tiến hành chủ yếu ở các khu đô thị và đặc biệt là các vùng có nguy cơ lan truyền cao. Về vấn đề đào tạo và nghiên cứu, hầu hết các quốc gia châu Phi đều có các hoạt động nghiên cứu trong các lĩnh vực như dịch tễ học sốt rét, sinh học, sinh thái học, tập tính vectơ và các yếu tố môi trường. Tuy nhiên, công tác đào tạo chủ yếu được tiến hành tại các trường đại học và cơ quan nghiên cứu, bao gồm cả đào tạo ngắn hạn và dài hạn trong lĩnh vực côn trùng y học, trong khi những hoạt động này lại ít được tổ chức tại Bộ Y tế. Ngoài ra, đội ngũ kỹ thuật viên và chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực côn trùng y học và khoa học sức khỏe không nhiều. Công tác PCSR chủ yếu là do Bộ y tế đảm nhiệm, đôi khi là do các ngành công nghiệp, nông nghiệp và tài nguyên môi trường (nước) tiến hành, các tổ chức phi chính phủ cũng có liên quan. Công tác giám sát và đánh giá là do các chương trình quốc gia phòng chống sốt rét đảm nhiệm. Hầu hết đội ngũ thực hiện việc giám sát và đánh giá này là các chuyên gia khoa học và kỹ thuật, nhưng họ lại không thực sự đại diện cho các cấp chính quyền đại phương khác nhau và có quyền quyết định hạn chế, cho nên việc nắm giữ các nguồn lực và thực hiện các công tác hữu ích chưa thật sự thỏa đáng. Chính phủ, Tổ chức y tế thế giới (WHO), Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), (UNDP), Ngân hàng thế giới (WB) là các nguồn tài trợ chính cho chương trình.
Hạn chế của phòng chống vector:
Cần nhận thức rằng những nỗ lực trong hoạch định và thực hiện chiến lược chưa thực sự đầy đủ, chính vì thế có một số các hoạt động chưa được tổ chức chặt chẽ, hoạch định thích đáng hoặc phù hợp với điều kiện địa phương. Các hoạt động phòng chống và các nguồn lực lại chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh nơi lẽ ra phải được phân cấp thực hiện ở tuyến cơ sở, cho nên có thể thấy rằng các hoạt động và các nguồn lực chưa được phân bổ hợp lý trong cả nước. Đối với việc thực hiện biện pháp màn chống muỗi thì dường như tỉ lệ sử dụng màn chiếm không quá 4%, trong khi đây là công cụ phòng chống vectơ phổ biến nhất thì việc thực hiện lại không triệt để. Hơn nữa, các phương pháp phòng chống khác cũng chưa được khai thác và sử dụng thỏa đáng. Không phải lúc nào cũng có thể giám sát được sự kháng hóa chất của vectơ. Khi sử dụng màn chống muỗi nhất thiết phải theo dõi chặt chẽ sự phát triển kháng hóa chất của côn trùng. Công tác đào tạo cán bộ và nhân sự không tương thích ở tất cả các cấp, việc tạo công ăn việc làm cho thanh niên ở khu vực này vẫn chưa được đảm bảo đầy đủ, nhiều cán bộ được đào tạo bài bản ngày càng lớn tuổi và gần đến tuổi về hưu thì lại chưa có kế hoạch nhân sự thay thế. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác huấn luyện kỹ thuật viên còn thiếu thốn, cộng với nguồn tài chính hạn hẹp vẫn là trở ngại chính cho việc đào tạo và sử dụng nguồn lực phục vụ PCSR hiện nay.
Hầu hết các quốc gia đều đưa ra một số các chính sách và quy định nhưng chúng chưa được áp dụng một cách hợp lý, một số ban ngành có liên quan chẳng hạn như nông nghiệp, công nghiệp và tài nguyên môi trường thì trách nhiệm của từng bộ phận lại không được xác định cụ thể và có sự chồng chéo đáng kể giữa các hoạt động và lãng phí nguồn lực vì thiếu sự phối hợp trong thực hiện. Mối liên hệ giữa các nhà nghiên cứu và chính quyền địa phương không phải lúc nào cũng thống nhất. Cũng có vài nhân tố tích cực trong hoạt động này, nhưng thường thì họ chỉ dựa trên mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Ở cấp quốc gia thì đây chưa phải là mối quan hệ được tổ chức chặt chẽ và cơ cấu rõ ràng. Việc giám sát các hoạt động cũng khó thực hiện được vì thiếu nhân lực và đôi khi không đủ khả năng yêu cầu.
Những yêu cầu cơ bản của chiến lược phòng chống vectơ sốt rét:
|
Những bệnh nhân sốt rét đang điều trị tại Kynea |
Nhiều chiến lược phòng chống vectơ cũng được tiến hành thường xuyên như phun thuốc diệt muỗi trong nhà, các biện pháp bảo vệ cá nhân, diệt bọ gậy, vệ sinh môi trường. Trước đây chiến dịch phun hóa chất tồn lưu trong nhà là biện pháp được chấp nhận rộng rãi ở cộng đồng và rõ ràng nếu được tiến hành hợp lý thì có thể cho kết quả tối ưu. Biện pháp này tuy cũng gặp những khó khăn vì phải thực hiện trong một thời gian dài và tốn kém nhưng đây vẫn là lựa chọn tốt cho một vài trường hợp nhất định, như ở những khu vực tử vong cao vì dịch bệnh và những khu vực ký sinh trùng đã kháng với thuốc điều trị SR. Cho nên vấn đề được đặt ra là phải tiến hành có chọn lọc, có mục tiêu rõ ràng và hiểu rõ phương pháp thích hợp áp dụng cho từng vùng. Các biện pháp bảo vệ cá nhân được thực hiện dựa trên các chất liệu tẩm hoá chất diệt muỗi, chủ yếu là màn và rèm; tuy nhiên chúng ta cũng đang phải đối mặt với những khó khăn khi thực hiện phương pháp này. Thực tế cho thấy nếu được sử dụng hợp lý thì có thể giảm từ 30 đến 60% số ca sốt rét và có thể ngăn ngừa hiện tượng kháng thuốc có hiệu quả.
Dựa vào đặc điểm sinh học của vectơ vốn sinh trưởng ở những nơi có vũng nước đọng, phương pháp diệt bọ gậy chỉ có thể thực hiện được khi có bản đồ sinh cảnh và đặc điểm nơi sinh sản của chúng, chủ yếu được tiến hành ở các khu vực nông thôn. Phòng chống bọ gậy bằng các biện pháp sinh học và hóa học có thể thu được kết quả nhờ các hoạt động kiểm soát môi trường, phát quang sinh cảnh và sự tham gia tích cực của cộng đồng. Biện pháp kiểm soát môi trường nhằm mục đích ngăn chặn sự sinh sản, đẻ trứng và phát triển của vectơ bằng cách hạn chế nguồn phát sinh và xây dựng nhà ở, cửa sổ, cửa lớn… vững chắc hơn. Những biến đổi môi trường do xây dựng đường sá, đập nước, ống dẫn…, đốt phá rừng, các hoạt động nông nghiệp và tưới tiêu có thể tạo ra môi trường phát triển của bọ gậy. Biện pháp kiểm soát môi trường thường được tiến hành ở các khu vực nông thôn và đòi hỏi phải có sự tham gia hợp tác của cộng đồng và các ban ngành có liên quan.
Sự truyền bệnh chủ yếu xuất hiện vào mùa mưa và cao điểm là vào tháng 10, nhưng cũng có khi lại diễn ra vào suốt mùa khô. Tại sao lại có sự lây lan vào mùa khô? Chúng ta thấy rằng vào mùa khô đáy sông khô cạn dần và những vũng nước nhỏ hình thành là địa điểm lý tưởng cho bọ gậy phát triển. Đây chính là nguyên nhân khiến cho muỗi sinh sản suốt trong mùa khô và gây ra mức độ lan truyền dịch bệnh sốt rét. Trong trường hợp này, mặc dù việc tiến hành các nghiên cứu can thiệp nhằm xem xét hiệu lực và hiệu quả thực sự của phương pháp này là cần thiết nhưng cũng cần phải điều chỉnh lưu lượng dòng chảy sao cho trong suốt mùa khô muỗi không còn nơi sinh sản nữa. Bằng cách này chúng ta có thể loại trừ được sự lây nhiễm bệnh trong mùa khô. Vào các mùa mưa cao điểm, chúng ta có thể sử dụng hóa chất diệt muỗi có hiệu lực tồn lưu khoảng hai hoặc ba tháng, ví dụ như trong tháng 8 chúng ta tiến hành phun tẩm thì có thể loại trừ gần như 90% các calây nhiễm thường xảy ra vào các tháng 8, 9 và 10.
Trở lại vấn đề tăng cường công tác phòng chống vectơ, thiết nghĩ cần phải có sự quản lý thông tin tốt hơn nữa nhằm xác định các nguồn thông tin tiềm năng như các cơ quan nghiên cứu và ban ngành phòng chống, bởi vì các chiến dịch phòng chống phù hợp với từng điều kiện địa phương là rất quan trọng. Thu thập thông tin cũng là điều quan trọng, khi đã nắm bắt được thông tin chúng ta có thể bổ sung kiến thức và cập nhật những thông tin trước đó, hầu hết đối với các nước này những thông tin 10 năm trước vẫn còn nguyên giá trị; đồng thời cần phải đẩy mạnh công tác truyền thông để có thể đến được vơi những ai quan tâm. Hoạch định chiến lược phòng chống vector phải dựa trên các kiến thức về dịch tễ học truyền bệnh sốt rét, sinh học, sinh thái học, tập tính, di truyền học vectơ , các kiến thức về môi trường và kinh tế xã hội và cũng phải xét đến các nguồn lực sẵn có như các trung tâm y tế, màn chống muỗi… Một khi nắm được những thông tin này chúng ta có thể phân vùng kiểm soát đúng nơi đúng lúc nhờ vào hệ thống định vị toàn cầu, và từ đó đặt ra các giải pháp ưu tiên.
Tóm lại, một số các khuyến nghị được đưa ra là phát triển năng lực thông qua việc liên tục thực hiện và nâng cao chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất hạ tầng cho công tác huấn luyện; đánh giá hiệu quả và việc thực hiện các biện pháp phòng chống ở từng khu vực cụ thể; đảm bảo sự phối hợp giữa các nhà nghiên cứu và chính quyền địa phương; các phương pháp mới và cải tiến thay thế cho các phương pháp hiện thời; nghiên cứu các loại vacxin phòng ngừa lây nhiễm, ký sinh trùng và vectơ sốt rét; sử dụng đồng thời hoặc liên tiếp nhiều phương pháp cho cùng một loại vectơnhằm tăng cường hiệu quả và hiệu lực cho công tác phòng chống; có sự tham gia trực tiếp của cả cộng đồng đối với từng biện pháp thực hiện khác nhau, cụ thể trong hoạt động kiểm soát môi trường, phòng chống vectơ, sử dụng màn và rèm chống muỗi và phát hiện sớm các biện pháp kém hiệu quả; giáo dục y tế nhằm nâng cao kiến thức và phát triển kĩ năng cũng như huy động toàn xã hội trong công tác phòng chống sốt rét; phối hợp với các ban ngành liên quan nhằm đóng góp các nguồn lực, đề ra các tiêu chuẩn, tránh tình trạng sao chép; tăng cường sự đầu tư tài trợ nhằm củng cố các nỗ lực quốc gia.
Các nước cần phân tích tình hình chiến lược phòng chống vectơ, phát triển cơ chế quản lý thông tin, nâng cao năng lực, các nguyên tắc và hoạt động, phát triển các trang thiết bị giúp cho việc thực hiện, đẩy mạnh phân cấp hoá và hợp tác hoá đối với các bên liên quan, tăng cường sự tham gia phối hợp của cộng đồng và các ban ngành trong công tác phòng chống vectơ sốt rét.