Ong là loài côn trùng có cánh biết bay, có liên hệ mật thiết và tập quán sống khá chặt chẽ như loài kiến và loài mối. Đến nay, ong có gần 20.000 loài, thuộc 9 họ khác nhau, mặc dù nhiều họ vấn chưa mô tả đến thời điểm này và số loài ong có thể còn cao hơn rất nhiều. Chúng được phát hiện ở khắp toàn cầu, ngoại trừ vùng Antarctica.
Về phân loại khoa học, ong thuộc giới Animalia, ngành Arthropoda, lớp Insecta, bộ Hymenoptera, phân bộApocrita, siêu họ Apoidea, loạt (series) Apiformes ( = Anthophila), các họ là Andrenidae, Apidae, Colletidae, Halictidae, Megachilidae, Melittidae, Stenotritidae.Ong là loài côn trùng có tổ chức xã hội cao như kiến, mối. ong sống theo đàn, mỗi đàn đều có ong chúa, ong thợ, ong non,... và có sự phân công công việc rõ rõ ràng. ong có nhiều loài khác nhau, các loài được con người nuôi để khai thác sản phẩm như mật ong, sáp sữa ong chúa...Tương tự như loài kiến và mối, tổ ong có ong chúa chuyên đẻ trứng, ấu trùng do trứng nở ra được nuôi bởi ong thợ (các con ong thợ này là các con cái); những ấu trùng này sẽ lớn lên thành ong non và cuối cùng, trong đàn ong còn có ong đực, có số lượng rất ít trong tổ, chúng chết đi sau khi giao phối với ong chúa.
Mật ong do con ong làm ra từ nhụy hoa, mỗi con ong đều có túi mật để chứa mật hoa, mật hoa trong túi mật được phân hóa thành hai loai đường: fructose và glucose. Trong mật hoa còn có rất nhiều nước nhưng lượng nước này sẽ bốc hơi đi làm mật hoa đặc lại thành mật ong. Các nhà sinh vật học đã thống kê ra rất nhiều loại ong khác nhau. Ðặc biệt có một loài ong sản xuất ra nhiều mật ong mà chúng ta quen gọi là ong mật. ong mật có thể bay xa đến 6 dặm để lấy mật hoa, thông thường thì ong mật bay tìm hoa từ 1 đến 2 dặm. Ong thường lấy phấn hoa và mật hoa vào mùa xuân lúc cây đang nở hoa.
Mật ong với công dụng chữa các bệnh thông thường
Ngoài việc hấp dẫn đối với các côn trùng, mật ong còn dùng để dinh dưỡng và trị bệnh. Mật ong là một trong những vị thuốc cổ truyền nhất . Sự sử dụng mật ong được ghi nhận trong các tài liệu cỏ Ai Cập hàng ngàn năm trước công nguyên. Mật ong đã được con người phát hiện và sử dụng như là một thực phẩm và vừa là một vị thuốc quí ngay từ thời cổ xưa, do đó nghề nuôi ong để lấy mật đã có từ 700 năm trước Tây lịch. Trải qua nhiều thế kỷ, mật ong luôn được đánh giá như loại chất ngọt quí hiếm, được dùng phổ biến trong ngày lễ của các tôn giáo cũng như được dùng ướp xác của những vua chúa đã qua đời. Mật ong còn dùng như nhiều loại thuốc và vào mục đích mỹ phẩm trang điểm.
Theo xếp độ ngọt thì đường fructose là hơi ngọt hơn đường kính (sucrose), đường glucose là ít ngọt hơn đường kính, và đường maltose thậm chí ít ngọt. Trong hầu hết các loại mật ong, đường fructose chiếm số lượng lớn do vậy có xu hướng làm cho hương vị mật ong hơi ngọt hơn so với đường kính. Một vài loại mật ong có lượng đường fructose rất phong phú có hương vị rất ngon, nhưng có một vài loại mật ong lại có đường glucose nhiều hơn.
Ðiều khiến mật ong trở thành chất ngọt như loại dược phẩm quí từ xa xưa của tự nhiên là trong mật ong chứa đựng nhiều thành phần kháng khuẩn và hợp chất chống oxy hóa. Mật ong giúp ích cho con người làm tăng hoạt hóa hệ miễn dịch, đẩy nhanh tiến trình trao đổi chất. Mật ong còn là một nguồn giàu hợp chất phenolic mang đặc tính của chất chống oxy hóa. Theo hệ thống đánh giá thực phẩm cho biết mật ong có trên 80 chất dinh dưỡng có lợi cho con người.
Trước kia, khi xác định chất lượng của mật ong đôi khi con người coi trọng màu sắc, tuy nhiên nhiều nghiên cứu cũng cho biết màu sắc khác nhau của mật ong phần lớn phụ thuộc vào loài ong, loại mật và phấn hoa của thực vật nơi ong mật sinh sống và hút mật, chính vì vậy chúng thể hiện nhiều màu sắc như: màu trắng, màu vàng, đỏ, nâu, hoặc màu gần như màu đen. Cũng tương tự như vậy mật ong khác nhau có nhiều hương và vị cũng đa dạng. ong mật ngoài thu nhận mật từ các cây trồng nông nghiệp, như cây rau, quả lương thực, trong tự nhiên các quan sát cho thấy hầu hết các mật ong có sẵn thường được ong thu nhận từ các cây cỏ ba lá (clover), cỏ linh lăng (alfalfa), cây thạch nam (heather) và hoa cây xiêm gai, mật ong có thể được làm từ nhiều loại hoa khác nhau, bao gồm cả cỏ xạ hương (Thyme) và cây cải hương (lavender).
Mật ong được dùng từ xưa để trị bệnh, có tính diệt vi trùng và được dùng trị các bệnh viêm nhiễm rất hiệu quả:
-Làm dịu cơn đau hoặc viêm họng, suy nhược cơ thể (do có cung cấp năng lượng thông qua bổ sung đường fructose và glucose);
-Tăng cường sinh lực (mỗi buổi sáng uống một ly nước nóng pha mật ong); ho và cảm thông thường (sử dụng mật ong uống, súc họng, ngậm);
-Đứt da và trầy da (mật ong có tính sát trùng có thể giúp giữ sạch vết đứt, vết trầy da khỏi bị nhiễm trùng); loại mật ong ở New Zealand được tìm thấy có tính chất sát trùng nhiều hơn các loại mật ong khác, đó là mật ong Manuka;
-Mật ong này còn đang được nghiên cứu cho trị liệu loét dạ dày, viêm tiêu hóa và các bệnh lý đại tràng chức năng (người ta sử dụng mật ong làm thuốc nhuận trường nhẹ, rối loạn tiêu hóa và điều ngạc nhiên là mật ong còn dùng để chữa bệnh tiêu chảy);
-Hoặc một số phương thuốc có vị mật ong là sáp ong được chế từ tổ ong, sau khi đã lấy hết mật và gỡ hết ong non.Theo Nam dược thần hiệu, dùng nguyên tầng ong đốt thành than, tán nhỏ cho trẻ uống với sữa hoặc nước cơm với liều 2-4g một ngày để chữa viêm họng, bí đại tiểu tiện;
-Tầng ong nướng lên, xác ve sầu bỏ miệng và chân, đem sao. Hai thứ lượng bằng nhau, tán riêng, rây bột mịn, rồi trộn đều; ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g với rượu chữa da khô nóng và ngứa ngáy. Tầng ong phối hợp với tóc rối, xác rắn lột, lượng bằng nhau, đốt tồn tính, tán bột, uống mỗi lần 4-6g với rượu chữa miệng lưỡi lở loét;
-Tổ ong được chế biến thành sáp theo cách làm sau: Tầng ong được cắt nhỏ, rải đều và mỏng lên một lớp xơ mướp đặt trên vỉ tre trong nồi hoặc chõ đã có sẵn nước. Đậy vung cho thật kín. Đun sôi nước. Hơi nước sôi bốc lên sẽ làm tầng ong mềm và chảy thành giọt qua xơ mướp để lại những cặn bẩn. Tiếp tục đun đến khi không còn mảnh tầng ong trên xơ mướp là được, bắt nồi ra, để nguội. Lớp váng đóng trên mặt nước trong nồi có độ dày hoặc mỏng tùy số lượng tầng ong. Vớt váng ra, đun cách thủy cho chảy, rồi đổ khuôn sẽ được sáp ong;
-Sáp ong được dùng trong y học cổ truyền với tên thuốc là hoàng lạp hay bạch lạp. Sáp có màu vàng, hơi trong, chất mềm và mịn như có dầu mỡ, không lẫn tạp chất, không nứt vỡ, có mùi thơm của mật ong, vị nhạt là loại tốt. Những loại thuốc tễ, thuốc hoàn to và dẻo như quy tỳ hoàn, hà xa đại tạo hoàn được bọc bằng sáp ong có thể bảo quản được rất lâu. Sáp ong tham gia vào thuốc dán, thuốc mỡ như một chất kết dính. Theo kinh nghiệm dân gian, sáp ong 20g, tán nhỏ, uống với rượu hâm nóng, chữa băng huyết. Sáp ong 10g, rễ câu đằng 20g, sao vàng; bồ kết 2 quả cả hạt, sao giòn. Tất cả tán nhỏ, trộn đều, đốt lấy khói xông qua đường tai chữa viêm tai. Để chữa chín mé, lấy sáp ong và nhựa thông với lượng bằng nhau, nấu cho tan, bôi vào đầu ngón tay, ngón chân bị sưng tấy;
-Ngoài ra, sáp ong kết hợp với nha đảm tử còn có tác dụng chữa kiết lỵ có máu mủ, rong huyết; kết hợp với phèn phi chữa ung nhọt;
-Forver Bee Propolis (FBP) là sản phẩm sáp ong của tập đoàn forever living products, Mỹ, trong đó sáp ong chứa 22 a.a, vitamin nhóm B và được củng cố bằng chất sữa ong chúa, FBP là một cách tuyệt vời để giúp hỗ trợ cho chức năng miễn dịch tự nhiên của cơ thể. FBP còn là một dạng thực phẩm thiên nhiên tuyệt vời, có chứa nhiều dưỡng chất như các loại vitamin, chất khoáng, enzyme, axít amin và một số nguyên tố khác. Sáp ong là kháng sinh thiên nhiên ngăn ngừa nhiễm khuẩn từ bên ngoài vào cơ thể;
-Người bị nấm (nấm da, nấm tóc, nấm bộ phận sinh dục) hoặc các bệnh ngoìa da (mụn bọc, mụn trứng cá, vẩy nến, viêm loét da),…dùng sáp ong sẽ rất tốt;
-Mật ong từ lâu đã được biết đến như một chất bổ dưỡng, là một chất lỏng đặc do ong mật (và một số loài ong khác) tạo ra từ phấn hoa. Trong mật ong là một hỗn hợp của đường và một vài thành phần hóa học khác. Nguồn duy nhất của mật ong chủ yếu là đường hoa quả fructose (khoảng 38,5%) và đường glucose (khoảng 31%), nhiều loại đường khác cũng có trong mật ong bao gồm đường maltose và đường sucrose v.v... một số vitamin và khoáng chất cũng tìm thấy trong mật ong nhưng chúng chỉ có một lượng nhỏ. Mật ong cũng chứa một vài thành phần chức năng như chất chống oxyhóa, bao gồm cả chrysin, pinobanksin, vitamin C, catalaze, và pinocembrin. Chính vì vậy ngay từ thời xa xưa cổ nhân đã dùng mật ong để điều trị vết thương do có tính kháng khuẩn, mặt khác các vi sinh vật không thể sống trong mật ong bởi lẽ mật ong có hoạt tính nước thấp;
-Các chất dinh dưỡng trong mật ong, bao gồm cả carbonhydrates, đường, chất xơ, natri, vitamin, khoáng chất, các acid béo, acid amin v.v... Lượng nước trong đường dao động trong khoảng 17%;
-Một nghiên cứu của trường Ðại Học Bonn (Ðức) đã xác nhận đặc tính kháng khuẩn kỳ diệu của mật ong, như y học dân gian đã khẳng định. Tham gia vào chương trình nghiên cứu là những bệnh nhân đã bị quen với nhiều loại thuốc kháng sinh thông thường. Trong đó, nhiều bệnh nhân có hệ miễn dịch bị suy giảm do hóa trị liệu, và vì vậy các vết thương hậu phẫu dễ bị nhiễm trùng. Khi kết hợp chỉ định kháng sinh với dùng mật ong để trị vết thương ngoài cho thấy đạt kết quả rất tốt. Ðặc biệt, bệnh nhân nhiễm SARM (S.aureaus kháng méthicilline, có thể gây tử vong) mà nhiều loại thuốc đều không chữa được, nhưng chỉ sau 48 giờ được điều trị kết hợp với mật ong, vết thương đã không bị nhiễm khuẩn.
Giải thích về dược tính của mật ong ?
Từ xa xưa, mật ong đã được sử dụng như là một loại thuốc kháng khuẩn băng bó vết thương và những bệnh liên quan đến rối loạn chức năng cơ thể. Trong mật ong có chứa chất bảo vệ các vết thương không bị nhiễm trùng. Ðể giải thích cơ chế làm cho vết thương lành bệnh khi dùng mật ong có nhiều ý kiến cho rằng: Thứ nhất, trong mật ong có mặt hai loại đường là glucose và fructose, hai loại đường này thường thu hút nước mạnh, mật ong sẽ hấp thụ nước ở vết thương, làm khô vùng thương tích, chính điều kiện này làm môi trường không thuận lợi cho các vi khuẩn và nấm phát triển (những vi sinh vật phát triển mạnh trong một môi trường ẩm). Ðiều quan trọng thứ hai là mật ong có chứa một enzyme gọi là glucose oxidase, khi kết hợp với nước, sản xuất hydrogen peroxide, một chất có tính khử trùng cao. Có loại mật ong chống khuẩn tốt nhất. Manuka UMF là tên của loại mật ong được được “sản xuất” từ loại ong mật sinh sống tại vùng đảo North của New Zealand khi loài ong mật này thu nhận mật và phấn hoa từ một loài cây bụi địa phương là Manuka. Loại mật ong UMF (Nhân tố duy nhất Manuka). Nghiên cứu của Ðại Học Waikato, New Zealand cho rằng loại mật ong ở đây có những đặc tính kháng khuẩn cao hơn nhiều so với các loại mật ong thông dùng khác, do vậy chúng có những tính năng đặc biệt làm lành vết thương, ở phần lớn các loại mật ong đều chứa hydro peroxide ở mức khác nhau. Sản phẩm này được tạo ra từ một enzyme mà ong bổ sung vào mật hoa. Trong mật của hoa manuka và cây họ hàng jellybush mọc ở Australia, có một thứ gì khác ngoài hydro peroxide và không có loại mật nào giống như thế được tìm thấy ở những nơi khác trên thế giới. Hoạt tính kháng khuẩn của mật ong manuka UMF rất lớn, chúng tiêu diệt cả vi khuẩn, nấm và nhiều nhóm nguyên sinh động vật. Mật của hoa manuka tiêu diệt mọi sinh vật gây nhiễm trùng. Hiện tại loại mật ong “độc nhất vô nhị” này đang được nhiều nhà khoa học chú ý, nhiều sản phẩm mật ong Manuka UMF đã có mặt trên thị trường nhiều quốc gia trên thế giới.
Liệu mật ong có chống lại những khối ung thư ?
Theo những nghiên cứu trên đối tượng ở chuột tại Ðại Học Zagreb (Croatia), các nhà khoa học phát hiện ra rằng mật ong và sữa ong chúa có khả năng chống lại bệnh ung thư khi tiến hành tìm hiểu tác dụng ngăn chặn và điều trị ung thư của những sản phẩm của ong như: mật ong, sữa ong chúa cũng như các chất liệu khác như keo ong, nọc ong. Hiện nay khoa học chưa giải thích rõ vì sao các sản phẩm từ ong lại có thể tấn công vào các tế bào ung thư. Tuy nhiên, rất có thể các hóa chất trong các sản phẩm từ ong gây ra hiệu ứng tự hủy ở tế bào hoặc gây nên hủy hoại các tế bào ung thư. Hai cách giải thích khác là sự có mặt của mật ong sẽ làm giảm lượng phân tử gốc có chứa oxy độc hại trong tế bào, dịch lỏng của cơ thể hoặc sản phẩm mật ong sẽ kích thích hệ miễn dịch ngăn chặn các khối u. Như vậy, có thể thấy các sản phẩm từ ong, đặc biệt là sữa ong và keo ong, có các đặc tính chống ung thư rất quý. Việc dùng mật ong rất có lợi trong việc ngăn ngừa và tiêu diệt khối u.
Việc chế biến mật ong thường làm mất đi nhiều những sản phẩm dinh dưỡng có giá trị. Khi ở trong tổ, mật ong có chứa một lượng nhỏ chất keo rẻo có thể tìm thấy trong sáp ong, đây là thành phần hỗn hợp chất rẻo thực vật và các thành phần khác mà các ong mật dùng vào việc xây tổ và cũng chính thành phần này đã giúp bảo vệ ong và tổ ong tránh được vi khuẩn và vi sinh vật. ong thợ tạo ra sáp ong bằng các tổ hợp của chất rẻo thực vật và những dịch đặc trưng tiết ra từ cơ thể của ong. Chế phẩm sinh học này như một cái bẫy để bảo vệ tổ, bằng cách ong thợ phủ một lớp mỏng xung quanh và trong tổ ong và trong những tầng của ong với mục đích màng mỏng này chống lại vi khuẩn, virus và nấm. Chất rẻo tìm thấy trong sáp ong chỉ là một ví dụ, một phần nhỏ trong số rất nhiều loại dinh dưỡng thực vật có mặt trong sáp ong và mật ong, tuy vậy, thành phần dinh dưỡng thực vật khác tìm thấy cả trong sáp ong và mật ong đã cho thấy có khả năng ngăn ngừa ung thư, và chống lại các khối u. Các hợp chất bao gồm caffeic acid, methyl caffeate, phenylethyl caffeate và phenylethyl dimethylcaffeate. Các nhà nghiên cứu gần đây cũng phát hiện ra những chất có thể ngăn ngừa ung thư ruột ở động vật do giảm phần lớn hoạt tính của hai loại enzyme phosphatidylinositol - đặc biệt là phospholipase C và lipoxygenase. Khi mật ong tươi qua chế biến và đun nóng thì những hoạt chất của các thành phần dinh dưỡng thực vật quí và giá trị trong mật ong sẽ bị mất đi một lượng lớn.