Ruồi nhà có tên khoa học là Musca domestica thuộc lớp côn trùng hai cánh với đặc điểm không chích hút máu; chúng sinh sản rất nhanh và nhiều, thường xuyên sống gần gũi với người và truyền bệnh cho người theo phương thức không đặc hiệu.
Đặc điểm của ruồi nhà
Ruồi nhà Musca domestica có màu xám đen, toàn thân và chân có nhiều lông. Đầu ruồi hình bán cầu, có hai mắt kép. Ruồi đực có hai mắt kép gần nhau, ruồi cái có hai mắt kép xa nhau. Bộ phận ăng ten ở đầu ruồi ngắn, có 3 đốt; vòi ruồi được cấu tạo theo kiểu liếm hút, khi không ăn thì vòi gập được vào trong ổ miệng. Ngực ruồi có 3 đôi chân, một đôi cánh mỏng, trong suốt với 3 chân dọc. Chân ruồi được chia ra thành nhiều đốt, có lông, đốt cuối bàn chân có móng, đệm móng và tuyến chất dính. Bụng ruồi thường chỉ nhìn rõ 5 đốt, ruồi cái có ống dẫn trứng, kéo dài ra khi đẻ, sau đẻ thì co lại. Ruồi cái có chiều dài khoảng từ 5,6 đến 7,5mm; ruồi đực nhỏ hơn với chiều dài khoảng từ 5,8 đến 6,5mm. Trứng ruồi hình bầu dục, màu trắng, nhỏ. Ấu trùng ruồi còn được gọi là giòi màu trắng ngà, thân chia thành 10 đốt. Thanh trùng còn được gọi là nhộng, chúng không ăn, không hoạt động; dài khoảng từ 5 đến 6,3mm, màu nâu đen như hạt gạo rang cháy. Ruồi nhà là loài côn trùng có vòng đời biến thái hoàn toàn, phát triển qua 4 giai đoạn là trứng ruồi, ấu trùng ruồi còn gọi là giòi, thanh trùng ruồi còn gọi là nhộng và ruồi trưởng thành. Ruồi trưởng thành đẻ ra trứng, sau khi giao phối khoảng từ 4 đến 8 ngày ruồi bắt đầu đẻ; mỗi lần ruồi đẻ từ 100 đến 150 trứng và cả cuộc đời ruồi đẻ khoảng 4 đến 8 lần. Về mùa hè nắng nóng, có thời tiết thích hợp thì sau thời gian 12 đến 24 giờ trứng nở ra giòi; giòi lột xác 2 lần và dài từ 1 đến 1,2cm. Sau khoảng 2 đến 4 ngày, giòi chui xuống đất lột xác nhưng xác vẫn giữ nguyên thành kén giả, đó là nhộng; sau một thời gian nhộng sẽ phá kén chui lên khỏi mặt đất phát triển thành ruồi trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời của ruồi phụ thuộc vào nhiệt độ và thức ăn có trong môi trường. Ở môi trường có đủ thức ăn và nhiệt độ 18oC, ruồi hoàn thành vòng đời trong khoảng 20 ngày; ở nhiệt độ 28oC, thời gian này chỉ mất khoảng 10,5 ngày. Đời sống của ruồi về mùa hè thường ngắn khoảng 18 đến 20 ngày, về mùa đông có khả năng sống lâu hơn, có khi tới 4 tháng.
|
Chu kỳ phát triển của ruồi nhà (ảnh internet) |
Ruồi thường đẻ trứng vào hố rác, phân người, phân gia súc hoặc xác các động vật. Sau 12 đến 24 giờ, trứng nở ra giòi giai đoạn I gọi là ấu trùng I; giòi ăn các chất hữu cơ trong môi trường. Sau 2 lần lột xác sẽ thành giòi giai đoạn III gọi là ấu trùng III; chúng không ăn, tìm nơi đất xốp để chui xuống phát triển thành nhộng gọi là thanh trùng. Nhộng ruồi thường ở độ sâu thích hợp từ 20 đến 30cm dưới mặt đất nhưng cũng có khi chỉ từ 1 đến 2cm. Nếu giòi không chui xuống đất thì không thể trở thành nhộng được. Nhộng không ăn, không hoạt động; sau một thời gian nhộng nở ra ruồi trưởng thành và chui lên khỏi mặt đất; khoảng 2 giờ sau khi khô cánh thì ruồi bay đi. Vào mùa đông lạnh, ruồi phát triển chậm hoặc ngừng phát triển; sang mùa xuân thời tiết ấm áp, nhộng mới nở thành ruồi. Nếu đất quá chặt hoặc nhiều nước quá, ruồi trưởng thành không chui lên khỏi mặt đất được và sẽ chết. Sau khi nở khoảng 2 ngày, ruồi bắt đầu giao phối, khi đói ruồi không thể giao phối được; nếu thức ăn thiếu chất đạm thì trứng thường không phát triển. Ruồi sinh sản rất nhanh và nhiều nên mỗi khi có dịch bệnh do ruồi truyền xảy ra, bệnh lan tỏa khá nhanh. Ruồi không phải là ký sinh trùng, chúng là loại côn trùng ăn tạp có thể ăn các loại thức ăn từ chất lỏng đến chất rắn. Nếu thức ăn là chất rắn, ruồi tiết nước bọt làm mềm thức ăn rồi hút vào dạ dày. Ruồi ăn rất lâu, khoảng 2 giờ mới no và ăn tất cả các chất bỗ dưỡng cũng như chất thừa thải, ôi thiu. Chúng vừa ăn vừa nôn, vừa bài tiết, đạp rũ chân và gây ô nhiễm nơi ruồi đậu. Ruồi tìm thức ăn nhờ đôi râu và thích loại thức ăn có mùi thơm, tanh, thối. Thức ăn và chất thải của người thường là thức ăn của ruồi nên thực tế cho thấy ở đâu có người là ở đó có ruồi, vì vậy nên loại ruồi này được gọi là ruồi nhà (Musca domestica). Ruồi thường hoạt động vào ban ngày nhưng không thích ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp và cũng không thích chỗ tối. Chúng thường thích màu vàng, màu da cam nhưng không thích màu tím, màu đỏ. Ruồi có khả năng bay xa được khoảng 1.500 mét và có thể theo các tàu, xe, thuyền bè... phát tán đi rất xa. Chúng phát triển và hoạt động mạnh vào mùa nóng, mùa lạnh ít hoạt động và thường tìm nơi ấm áp để trú đậu. Trong môi trường sống, ruồi phát triển ở những nơi có điều kiện vệ sinh thấp kém.
Các bệnh do ruồi nhà truyền và cách phòng chống
Ruồi nhà truyền bệnh theo phương thức không đặc hiệu và có khả năng truyền được rất nhiều loại mầm bệnh. Ruồi là loại côn trùng có vai trò truyền bệnh rất lớn do đặc điểm cấu tạo của ruồi có khá nhiều lông ở chân, ở vòi nên mang được nhiều loại mầm bệnh. Đồng thời chúng thích ăn phân, máu, mủ, chất nôn, các loại mầm bệnh vào cơ quan tiêu hóa nhưng không bị tiêu diệt mà vẫn tồn tại. Ngoài ra, ruồi cũng thích ăn các loại thức ăn của người và sống gần gũi với người; trong khi ăn chúng vừa ăn vừa nôn, vừa bài tiết... nên gây bẩn và ô nhiễm; có thể vận chuyển được nhiều loại mầm bệnh. Theo nhà khoa học Derbeneva - Ukhova năm 1952, ruồi nhà có thể mang trên thân mình 6 triệu mầm bệnh và ở trong ống tiêu hóa 28 triệu mầm bệnh. Ruồi nhà có khả năng truyền được mầm bệnh là các loại vi khuẩn như tả, lỵ trực trùng, lao, thương hàn...; các loại virus như đậu mùa, mắt hột, viêm gan, bại liệt...; các loại ký sinh trùng như lỵ amíp, trùng roi, trứng giun sán... Do đặc điểm sinh lý, sinh thái, khả năng vận chuyển mầm bệnh của ruồi nên chúng trở thành thủ phạm và chính là một trong các nguyên nhân quan trọng để gây nên sự phát sinh các dịch bệnh, đặc biệt là dịch bệnh đường tiêu hóa.
Phòng chống ruồi sinh sản và phát triển bằng cách triệt bỏ các nguồn thức ăn của ruồi như thường xuyên vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, quản lý và xử lý các loại chất thải. Đồng thời triệt phá các nơi sinh đẻ của ruồi ở chuồng gia súc, hố xí, hố rác bằng cách xây gạch hoặc nện chặt đất, đậy kín... Ngoài ra cần tích cực diệt ruồi trưởng thành bằng phương pháp đập, bẫy, dùng bẫy dính, mồi độc... nhưng cần chú ý phải bảo đảm an toàn cho người và các động vật nuôi. Thực tế cho thấy những nơi nào có sự hiện diện của ruồi nhà hoạt động với mật độ cao là những nơi ấy có điều kiện vệ sinh sống thấp kém. Do ruồi nhà là loại côn trùng có thể vận chuyển nhiều loại mầm bệnh khác nhau làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người nên cần có biện pháp chủ động phòng chống thiết thực nhằm giảm thiểu những tác hại do chúng gây nên. Vào mùa nắng nóng, ruồi nhà có điều kiện hoạt động và phát triển mạnh nên có thể làm cho một số dịch bệnh bùng phát, trong đó phổ biến là dịch bệnh về đường tiêu hóa. Vì vậy cộng đồng người dân cần quan tâm đến vấn đề này để áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm tự bảo vệ cho bản thân mình và gia đình mình.