Theo thông tin ghi nhận, hiện nay tình trạng ruồi nhà phát triển từ bãi rác Đa Phước thuộc huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh đã gây mối phiền hà rất nhiều cho sinh hoạt của người dân tại 3 xã Đa Phước, Quy Đức và Phong Phú. Ngành y tế dự phòng của thành phố đang tập trung sức để khống chế nạn ruồi làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân và nguy cơ lây lan dịch bệnh.
Đặc điểm của ruồi nhà
Ruồi nhà thuộc lớp côn trùng hai cánh thường sống gần gũi với người, không chích đốt máu, sinh sản rất nhanh, nhiều và truyền bệnh theo phương thức không đặc hiệu. Nó có màu xám đen, toàn thân và chân có nhiều lông; đầu có hình bán cầu với hai mắt kép. Phân biệt ruồi đực và ruồi cái dựa vào đôi mắt, ruồi đực có hai mắt kép gần nhau, ruồi cái có hai mắt kép xa nhau. Vòi ruồi cấu tạo theo kiểu liếm hút, khi không ăn vòi gập được vào ổ miệng. Ngực ruồi có 3 đôi chân, 1 đôi cánh mỏng trong suốt với 5 gân dọc. Chân ruồi gồm nhiều đốt, có lông, đốt cuối bàn chân có móng, đệm móng và tuyến tiết chất dính. Bụng ruồi nhìn rõ được 5 khoang, ruồi cái có ống dẫn trứng thường kéo dài ra khi đẻ, sau đẻ thì co lại; bụng ruồi cái dài hơn bụng ruồi đực. Trứng ruồi bình bầu dục, màu trắng, nhỏ. Ấu trùng còn được gọi là dòi, màu trắng ngà, thân chia thành 10 đốt. Thanh trùng còn được gọi là nhộng, không hoạt động, không ăn, màu nâu đen như hạt gạo rang cháy.
Ruồi nhà là loài côn trùng có vòng đời biến thái hoàn toàn, phát triển qua 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, thanh trùng và ruồi trưởng thành. Ruồi cái đẻ trứng sau khi giao phối với con đực khoảng 4-8 ngày, mỗi lần đẻ khoảng 100-150 trứng và có khả năng đẻ được từ 4-8 lần trong đời. Vào mùa hè nắng nóng, sau 12-24 giờ, trứng nở ra dòi, dòi lột xác 2 lần. Sau 2-4 ngày, dòi chui xuống đất lột xác nhưng xác vẫn giữ nguyên thành kén giả gọi là nhộng; sau một thời gian nó phá kén và chui lên khỏi mặt đất phát triển ruồi trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời của ruồi phụ thuộc vào nhiệt độ, thời tiết và thức ăn của môi trường. Ở môi trường có thức ăn phù hợp và nhiệt độ khoảng 18oC, ruồi hoàn thành vòng đời trong khoảng 20 ngày; ở nhiệt độ 28oC thời gian này rút ngắn chỉ khoảng 10,5 ngày. Đời sống của ruồi về mùa hè nắng nóng dài khoảng 18-20 ngày, vào mùa đông lạnh rét ruồi sống lâu hơn có thể đến 4 tháng.
Tập tính hoạt động
Ruồi nhà thường đẻ trứng vào hố rác, phân người, phân gia súc hoặc xác động vật đã chết. Sau 12-24 giờ trứng nở ra dòi hay còn gọi là ấu trùng, nó ăn các chất hữu cơ có trong môi trường và sau 2 lần lột xác, không có khả năng ăn và tìm nơi đất xốp chui xuống để phát triển thành nhộng hay còn gọi là thanh trùng. Nhộng thường chui xuống ở độ sâu 20-30 cm dưới mặt đất nhưng có khi chỉ chừng 1-2 cm. Nếu dòi không chui được xuống đất thì không thể thành nhộng được. Nhộng không ăn, không hoạt động và sau một thời gian nở ra thành ruồi trưởng thành chui lên khỏi mặt đất, khoảng sau 2 giờ ruồi trưởng thành đã khô cánh và có khả năng bay đi. Vào mùa đông lạnh, ruồi phát triển chậm hoặc ngừng phát triển. Qua mùa xuân ấm áp, nhộng mới nở thành ruồi để chui lên mặt đất. Nếu nền đất quá cứng hoặc có nhiều nước thì ruồi không chui lên được khỏi mặt đất và sẽ chết. Sau khi nở được khoảng 2 ngày, ruồi trưởng thành bắt đầu có khả năng giao phối. Nếu ruồi đói không có khả năng giao phối và nếu thức ăn của ruồi thiếu chất đạm thì trứng không thể phát triển được.
Ruồi không phải là một loại ký sinh trùng, nó sinh sản rất nhanh và nhiều, ăn tất cả các loại thức ăn từ chất lỏng đến chất rắn. Nếu thức ăn là chất rắn, ruồi tiết nước bọt làm mềm thức ăn rồi hút vào dạ dày. Một bữa ăn của ruồi rất lâu, có khi đến khoảng 2 giờ mới no và có khả năng ăn tạp từ các chất bổ dưỡng cho đến các cặn bả, thừa thải, ôi thiu. Nó cũng có tập tính ăn tham, vừa ăn vừa nôn, vừa bài tiết, đạp rũ chân, gây ô nhiễm nơi ruồi đậu. Ruồi có khả năng tìm thức ăn nhờ đôi râu và thường thích thức ăn có mùi thơm, tanh, thối. Thức ăn và chất thải của con người là thức ăn thích hợp của ruồi nên ở đâu có con người là ở đó có ruồi, vì vậy nó được gọi là ruồi nhà (Musca domestica). Ruồi thường hoạt động vào ban ngày nhưng không thích ánh sáng mặt trời trực tiếp cũng như chỗ tối tăm; nó ưa thích màu vàng, màu da cam và không thích màu tím, màu đỏ. Chúng có khả năng bay xa được khoảng 1.500 mét, có thể theo tàu, xe, thuyền bè di chuyển, phát tán đi rất xa. Nơi có điều kiện vệ sinh kém ruồi thường phát triển nhiều và hoạt động mạnh vào mùa nóng, đến mùa lạnh nó ít hoạt động hơn và tìm nơi ấm áp để trú ẩn.
Vai trò truyền bệnh
Ruồi truyền bệnh theo phương thức không đặc hiệu và nó có khả năng truyền được rất nhiều bệnh tật cho con người vì cơ thể của ruồi có đầy lông ở chân, ở vòi nên mang được nhiều loại mầm bệnh. Nó thích ăn phân, máu, mủ, chất nôn có mầm bệnh; khi vào cơ quan tiêu hóa mầm bệnh không bị tiêu diệt mà vẫn tồn tại. Ruồi nhà sống gần gũi với con người và có thể vận chuyển được nhiều mầm bệnh để gây bệnh vì nó có khả năng mang trên cơ thể 6 triệu mầm bệnh và trong ống tiêu hóa 28 triệu mầm bệnh các loại. Ruồi thường truyền một số bệnh do vi khuẩn như tả, lỵ, lao, thương hàn ... do virus như đậu mùa, mắt hột, viêm gan, bại liệt ... do ký sinh trùng như lỵ amibe, trùng roi, giun, sán ... Do đặc điểm tập tính sinh lý, sinh thái, khả năng vận chuyển mầm bệnh của ruồi, nó đã trở thành một trong các nguyên nhân quan trọng gây nên sự bùng phát dịch, đặc biệt là các dịch bệnh đường tiêu hóa, trong đó các dịch bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm.
Cách phòng chống ruồi nhà
Muốn phòng chống ruồi nhà có hiệu quả cần phải thực hiện phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp như: Khống chế các nguồn thức ăn của ruồi bằng cách vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, vệ sinh ăn ở, quản lý chặt chẽ và xử lý tốt các chất thải. Triệt phá nơi sinh đẻ của ruồi ở các bãi rác, chuồng gia súc, sử dụng hố xí hợp vệ sinh, xây dựng hố rác bằng gạch, nện chặt đất, có nắp đậy kín ... Tăng cường biện pháp diệt ruồi trưởng thành bằng cách đập, bẫy bắt, bẫy dính, dùng mồi độc, phun hóa chất diệt ruồi ... và cần chú ý việc bảo đảm an toàn cho người, gia súc. Hiện nay đang vào mùa nắng nóng, bệnh tả và một số bệnh đường tiêu hóa có khả năng phát triển ở một số địa phương, nếu các loại thức ăn và chất thải của bệnh nhân có mang phẩy khuẩn tả và những mầm bệnh khác thì ruồi nhà sẽ có cơ hội phát tán, lây truyền và dịch bệnh bùng phát. Mong rằng nạn ruồi nhà phát triển tại các xã của huyện Bình Chánh thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có nguyên nhân từ bãi rác Đa Phước sớm được khống chế để hạn chế sự phiền hà cho người dân và dịch bệnh xảy ra cho cộng đồng.