Trong quá trình thực hiện công tác phòng, chống các bệnh do muỗi truyền, hoá chất diệt muỗi đã được ngành y tế dự phòng sử dụng để làm làm giảm tỷ lệ và mật độ hoạt động của muỗi nhằm khống chế sự lây lan bệnh. Hiện nay, hoá chất diệt muỗi thường được ngành y tế sử dụng thuộc nhóm 4, đó là các loại hoá chất nhóm Pyrethroid tổng hợp như Lambda cyhalothrin (Icon), Alpha cypermethrin (Fendona) ... Hoá chất sử dụng có hiệu lực diệt muỗi tốt khi muỗi truyền bệnh còn có sự nhạy cảm đối với hoá chất diệt. Tuy vậy trên thực tế, một trong những khó khăn đối với công tác chuyên môn kỹ thuật là muỗi truyền bệnh kháng lại với các loại hoá chất diệt đang sử dụng. Do đó, việc theo dõi độ nhạy cảm của muỗi truyền bệnh đối với hoá chất diệt là vấn đề cần thiết để phát hiện tình hình kháng hoá chất nhằm có kế hoạch thay đổi loại hoá chất phù hợp, đáp ứng được hiệu quả của biện pháp can thiệp.
Sự nhạy cảm và kháng hoá chất diệt của muỗi truyền bệnh
Sự nhạy cảm và kháng hoá chất diệt của muỗi truyền bệnh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy việc giám sát độ nhạy cảm và tình hình muỗi truyền bệnh kháng lại với hoá chất diệt là một hoạt động cần thiết không thể thiếu được trong công tác phòng, chống các bệnh do muỗi truyền vì muỗi truyền bệnh kháng lại với hoá chất diệt là một trong những nguyên nhân làm cho công tác phòng, chống dịch bệnh bị thất bại, mục tiêu phấn đấu thực hiện giảm số người mắc bệnh không thể đạt được. Hoạt động giám sát độ nhạy cảm và kháng hoá chất của muỗi truyền bệnh sẽ thu thập được những thông tin, dữ liệu cần thiết để có cơ sở khoa học xây dựng chiến lược và chọn lọc loại hoá chất diệt muỗi phù hợp với thực tế tình hình.
Tình trạng muỗi truyền bệnh kháng lại với hoá chất diệt được xác định là sự phát triển khả năng sống sót của một số cá thể muỗi sau khi tiếp xúc với nồng độ của một loại hoá chất diệt mà với nồng độ này thì đa số cá thể muỗi trong một quần thể bình thường của loài muỗi đó sẽ bị chết sau khi tiếp xúc. Việc khống chế tình trạng muỗi truyền bệnh kháng lại với hoá chất diệt gặp rất nhiều khó khăn vì nó là hậu quả gây nên do con người đã dùng các loại hoá chất sử dụng trong y tế cùng với một số hoá chất sử dụng trong nông nghiệp, hoá chất gia dụng sử dụng trong các hộ gia đình một cách rộng rãi không kiểm soát hết được. Có thể nói rằng việc kiểm soát tình trạng sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật, hoá chất sử dụng trong gia dụng hiện nay gặp quá nhiều khó khăn nếu như không muốn nói là không thể thực hiện được. Vấn đề này đã tạo điều kiện thuận lợi cho muỗi truyền bệnh có nhiều cơ hội tiếp xúc với hoá chất diệt và kháng lại với hoá chất cùng loại được sử dụng sau đó.
Hiện tại, giải pháp để khống chế và khắc phục tình trạng kháng lại với hoá chất diệt của muỗi truyền bệnh chủ yếu là hạn chế áp lực tác động chọn lọc của muỗi đối với hoá chất như chỉ sử dụng hoá chất ở những nơi và những thời điểm nào thật sự cần thiết. Thay đổi phương thức sử dụng hoá chất như dùng các loại hoá chất khác nhau, sử dụng các loại hoá chất khác nhau ở những vùng khác nhau, không sử dụng chỉ một loại hoá chất trong một thời gian dài. Nghiên cứu, chọn lọc và sử dụng các loại hoá chất mới thay thế cho các loại hoá chất diệt cũ đã bị muỗi truyền bệnh kháng lại, không còn đáp ứng hiệu quả. Việc khống chế và khắc phục muỗi truyền bệnh kháng lại với hoá chất diệt có hiệu quả tốt khi hiện tượng kháng hoá chất được phát hiện sớm với các thông tin có liên quan như mức độ kháng, phạm vi kháng ... được cung cấp, phân tích nhanh chóng và sử dụng một cách hợp lý. Vì vậy, công tác giám sát muỗi truyền bệnh kháng lại với hoá chất diệt cần được các địa phương thực hiện thường xuyên, tạo cơ sở để đánh giá hiệu lực việc sử dụng hoá chất trong công tác phòng chống trung gian tuyền bệnh nhằm bảo đảm được mục tiêu làm giảm sự mắc bệnh và có căn cứ để xây dựng kế hoạch nhiệm vụ công tác chặt chẽ từ tình hình thực tiễn.
Kỹ thuật giám sát độ nhạy cảm và kháng hoá chất của muỗi truyền bệnh
 |
Phun thuốc diệt muỗi tại khu dân cư |
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã quy định sử sụng kỹ thuật thử nhạy cảm (WHO/ CDS/CPC/MAL/98.12) để giám sát muỗi truyền bệnh kháng lại với hoá chất diệt. Quy trình hướng dẫn kỹ thuật thử nghiệm với trang thiết bị chuẩn, trong đó dùng giấy tẩm với nồng độ quy định của một số hoá chất thuộc nhóm pyrethroid tổng hợp được sử dụng để đánh giá độ nhạy cảm hay độ kháng hoá chất diệt muỗi như Permethrin 0,75%, Deltamethrin 0,05%, Lambda cyhalothrin (Icon) 0,05%, Alpha cypermethrin (Fendona) 30mg/m2. Theo quy trình thử nhạy cảm, thời gian muỗi tiếp xúc với giấy tẩm hoá chất là 60 phút, sau đó muỗi được theo dõi để tính tỷ lệ chết sau 24 giờ kể từ khi kết thúc thời gian tiếp xúc. Độ nhạy cảm của muỗi truyền bệnh đối với hoá chất diệt được đánh giá dựa trên tỷ lệ muỗi chết sau 24 giờ với các quy định: nếu tỷ lệ muỗi chết từ 98-100% là muỗi còn nhạy cảm với hoá chất, nếu tỷ lệ muỗi chết 80-97% là muỗi có thể kháng với hoá chất thử, nếu tỷ lệ muỗi chết dưới 80% là muỗi đã kháng với hoá chất thử.
Vấn đề cần quan tâm việc giám sát độ nhạy cảm và kháng hoá chất của muỗi
Việc thử nghiệm kỹ thuật giám sát độ nhạy cảm và kháng lại hoá chất diệt của muỗi truyền bệnh cần phải được các địa phương cơ sở thực hiện như một nhiệm vụ chuyên môn kỹ thuật thường quy vì việc xác định này sẽ cung cấp các cơ sở khoa học cần thiết cho sựlựa chọn loại hoá chất diệt muỗi phù hợp với tình hình thực tế để xây dựng và đề xuất chiến lược sử dụng hoá chất hợp lý, hiệu quả. Thử nghiệm này cũng còn giúp xác định những loài muỗi truyền bệnh còn nhạy cảm với hoá chất để sử dụng trong thử nghiệm sinh học (Bioassay) nhằm đánh giá chất lượng tẩm màn hoặc phun tồn lưu bằng hoá chất và hiệu lực tồn lưu của hoá chất trên màn ngủ, trên tường vách. Thực tế hiện nay trong công tác tổ chức phòng, chống các bệnh do muỗi truyền, Bộ Y tế, Cục Y tếDự phòng và Môi trường cũng như các Viện có liên quan chưa trang bị đầy đủ các trang thiết bị và điều kiện cần thiết để bộ phận chuyên khoa ở các cơ sở thực hiện nhiệm vụ giám sát độ nhạy cảm và kháng lại hoá chất diệt của muỗi truyền bệnh một cách đầy đủ theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Mặt khác, cán bộ làm công tác phòng, chống côn trùng truyền bệnh ở các địa phương trong hệ thống chuyên khoa cần phải được củng cố, tăng cường, nâng cao năng lực về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý tối thiểu để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Phải có lực lượng cán bộ chuyên khoa có trình độ kỹ thuật cũng như phải có các dụng cụ, trang thiết bị cần thiết được cung cấp theo tiêu chuẩn quy định của Tổ chức Y tế Thế giới thì mới có thể thực hiện được nhiệm vụ giám sát độ nhạy cảm và kháng hoá chất của muỗi truyền bệnh một cách đầy đủ theo quy trình và mục đích mong muốn. Hy vọng rằng tất cả các cơ sở, các địa phương đều thực hiện được công tác giám sát này để nâng cao chất lượng công tác phòng, chống muỗi truyền bệnh nói riêng và phòng, chống dịch bệnh do muỗi truyền nói chung nhằm góp phần bảo đảm các mục tiêu nhiệm vụ của công tác y tế dự phòng.