Ở Việt Nam mò có số lượng giống và loài phong phú, gồm 107 loài và phân loài thuộc 23 giống, trong đó có 17 loài đặc hữu. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về véc tơ sốt mò tất cả đều cho rằng loài mò L. (L) deliense có vai trò chính trong truyền bệnh sốt mò ở Việt Nam, ấu trùng các loài mò chủ yếu ký sinh trên thú gặm nhấm, chó, mèo, chim, gà, cũng có ở người.
Bệnh sốt mò còn có tên gọi sốt triền sông Nhật Bản, sốt bụi rậm là một bệnh khá nguy hiểm, trung gian truyền bệnh là một số loài mò, tác nhân gây bệnh làRickettsia orientalis, bệnh thường gặp ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Ở Việt Nam bệnh sốt mò đã được phát hiện ở Sài Gòn từ năm 1915 do Goutron mô tả, bệnh xảy ra ở vùng trung du và miền núi, đã có hàng nghìn người mắc và hàng trăm người chết tại các tỉnh: Sơn La, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Quảng Trị, Bình Long. Vào thế kỷ thứ 19 người ta đã xác định nhiều bệnh do một số lòai của ngành chân khớp (Arthropoda) truyền trong đó có bệnh sốt mò trung gian truyền bệnh là một số loài mò. Một thời gian dài bệnh tạm lắng, trong thời gian gần đây bệnh lẻ tẻ xuất hiện ở nhiều nơi và có xu hướng ngày càng tăng cao, từ năm 1998 đến năm 2005 tại Bệnh viện 110 đã điều trị 168 ca sốt mò, trong các năm 2001- 2003 Viện Y học lâm sàng các Bệnh nhiệt đới (Bạch Mai, Hà Nội) có 166 ca bệnh sốt mò, theo số liệu hồi cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam, Trung tâm Y tế huyện Duy Xuyên và Phước Sơn từ năm 2008 – 2010 ở huyện Duy Xuyên có 72 ca bệnh sốt mò, từ năm 2005 – 2010 ở huyện Phước Sơn có 49 ca bệnh sốt mò.
Thành phần loài và sự phân bố của mò tại các điểm nghiên cứu ở Quảng Nam
Mò đỏ họ Trombiculidae Eving, 1944 thuộc giới Động vật (Animalia); ngành Chân khớp (Arthropoda); lớp Nhện (Arachnida); phân lớp Acarina Evans et al., 1961; bộ Acariformes Krantz, 1970; phân bộ Prostigmata Kramer, 1887; liên họ Trombidoidea Banks.
Bảng 1. Thành phần loài và sự phân bố của mò ở Duy Sơn và Phước Đức (Quảng Nam)
TT | LOÀI | ĐỊA ĐIỂM |
Duy Sơn, Duy Xuyên | Phước Đức, Phước Sơn |
1 | Eutrombicula hirsti Sambon, 1927 | + | + |
2 | Eutrombicula wichmanni Oudemans, 1905 * | + | + |
3 | Gahrliepia (Walchia) chinensis Chen và Hsu, 1955 * | + | + |
4 | Gahrliepia (Walchia) lupella Traub et Evans, 1957 | | + |
Ghi chú: Loài có dấu * là loài có khả năng truyền bệnh sốt mò.
Thành phần loài mò ở Duy Sơn-Duy Xuyên và Phước Đức-Phước Sơn (Quảng Nam) có 4 loài thuộc 2 giống trong đó có 2 loài có khả năng truyền bệnh sốt mò là E. Wichmanni và G. (W) chinensis. Ở xã Phước Đức có 4 loài, thuộc 2 giống, trong đó G (W). chinensis chiếm tỷ lệ khá cao 29,8% và E. wichmanni (26,3%), hai loài này ký sinh chủ yếu trên các loài chuột thu thập được, G (W). chinensis có mật độ 4,7 con trên chuột nhắt nhà (Mus musculus); 3,3 con trên chuột bụng trắng (Rattus niviventer); E. wichmanni có mật độ 2,1 con trên chuột nhắt nhà (Mus musculus); 7,1 con trên chuột bụng trắng (Rattus niviventer). Ở xã Duy Sơn có 3 loài mò, thuộc 2 giống, trong đó E. wichmanni chiếm tỷ lệ 30,2% và Gahrliepia (Walchia) chinensis (28,1%), hai loài này ký sinh chủ yếu trên các loài gặm nhấm thu thập được, G (W). Chinensis có mật độ 1,5 con trên sóc sọc hông bụng hung (Callosciurus notatus), có mật độ 1,4 con trên chuột nhắt nhà (Mus musculus); 1,7 con trên chuột đồng bé (Rattus losea); E. wichmanni có mật độ 4,8 con trên chuột đồng bé (Rattus losea),
Thành phần và tỷ lệ nhiễm mò của vật chủ
Vật chủ nhiễm mò chủ yếu là các loài gặm nhấm: ở Phước Đức chuột nhắt nhà (Mus musculus) tỷ lệ nhiễm là 33,3% và chuột bụng trắng (Rattus niviventer) 28,6%; ở Duy Sơn Chuột nhắt nhà (Mus musculus) 28,6%, chuột đồng bé (Rattus losea) 33,3% và sóc sọc hông bụng hung (Callosciurus notatus) 50%. Trên vật nuôi chỉ có gà (Gallus gallusdomesticus) phát hiện có nhiễm mò, chưa phát hiện bò nhà (Bos primigenius), trâu nhà (Bubalus bubalis), chó (Canis familiaris) và mèo (Felis felisdomesticus) bị nhiễm mò.
Tình hình bệnh nhân và mùa truyền bệnh sốt mò ở huyện Phước Sơn
Theo số liệu từ Trung tâm Y tế huyện Phước Sơn và Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam từ năm 2005 đến tháng 10/2011 có 53 bệnh nhân sốt mò, trong đó năm 2005 có 28 bệnh nhân, 2006 có 9 bệnh nhân, 2007 có 2 bệnh nhân, 2008 có 4 bệnh nhân, 2009 có 4 bệnh nhân, 2010 có 2 bệnh nhân, 2011 có 4 bệnh nhân, bệnh chủ yếu tập trung vào năm 2005 và 2006.
 |
Biểu đồ 1. Diễn biến bệnh sốt mò ở Phước Sơn hai năm 2005 và 2006. |
Bệnh sốt mò ở Phước Sơn thường có rải rác trong năm, có năm bệnh tập trung vào khoảng tháng 7, vào năm 2005 (28 ca) bệnh nổi lên có nhiều vào tháng 7, trùng hợp với thời gian cuối tháng 5, tháng 6 là mùa người dân vào rừng thu hái trái ươi, từ năm 2009 giảm dần các năm gần đây bệnh lác đác vài ca trong năm phù hợp với việc chưa thu thập được véc tơ chính truyền bệnh sốt mò ở Việt Nam Leptotrombidium (Leptotrombidium) deliense.
Một số yếu tố dịch tễ học bệnh sốt mò ở huyện Phước Sơn
- Véc tơ: Phước Sơn chỉ thu thập được 2 loài có khả năng truyền bệnh sốt mò: G (W). chinensis chiếm tỷ lệ khá cao 29,8% trong tổng số cá thể thu thập được, ký sinh có mật độ 4,7 con trên chuột nhắt nhà (Mus musculus); 3,3 con trên chuột bụng trắng (Rattus niviventer); và E. wichmanni chiếm tỷ lệ khá 26,3% trong tổng số cá thể thu thập được, ký sinh có mật độ 2,1 con trên chuột nhắt nhà (Mus musculus); 7,1 con trên chuột bụng trắng (Rattus niviventer).
- Nhà bệnh nhân sát rừng (ở Phước Đức) : 100%.
- Bệnh nhân có đi làm rẫy trong núi rừng (ở Phước Đức): 100%.
- Bệnh nhân là người lớn (từ 16 tuổi trở lên): 81,1%.
- Bệnh nhân là trẻ em (dưới 16 tuổi): 18,9%.
- Bệnh nhân là người lớn nam giới: 46,5%.
- Bệnh nhân là người lớn nữ giới:53,5%.
 |
Sinh cảnh nhà dân ở Phước Đức – Phước Sơn. |
Tình hình bệnh nhân và mùa truyền bệnh sốt mò ở huyện Duy Xuyên
Từ năm 2008 đến nay có 78 bệnh nhân sốt mò, chủ yếu tập trung vào năm 2008 và 2009 (năm 2008 có28 bệnh nhân và năm 2009 có 40 bệnh nhân), hai năm trở lại đây bệnh giảm rõ rệt năm 2010 có 4 bệnh nhân, năm 2011 tính đến tháng 9 có 6 bệnh nhân (tháng 1 có 1 ca, tháng 3 có 3 ca, tháng 4 có 1 ca, tháng 8 có 1 ca) .
 |
Biểu đồ 2. Diễn biến bệnh sốt mò ở Duy Xuyên hai năm 2008 và 2009. |
Trước đây vào những năm 2008, 2009 ở Duy Xuyên bệnh sốt mò có rải rác quanh năm, tuy nhiên bệnh thường tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 12 và vào tháng 3 (vào khoảng tháng 2 người dân thường xuyên vào rừng chăm sóc rừng trồng), trong 2 năm gần đây bệnh giảm rõ rệt phù hợp với việc chưa thu thập được véc tơ chính truyền bệnh sốt mò ở Việt Nam Leptotrombidium (Leptotrombidium) deliense.
Một số yếu tố dịch tễ học bệnh sốt mò ở Duy Xuyên
- Véc tơ:Ở Duy Sơn – Duy Xuyên chỉ thu thập được 2 loài có khả năng truyền bệnh sốt mò: G (W). chinensis chiếm 28,1% trong tổng số cá thể thu thập được, ký sinh có mật độ 1,5 con trên sóc sọc hông bụng hung (Callosciurus notatus); 1,4 con trên chuột nhắt nhà (Mus musculus); 1,7 con trên chuột đồng bé (Rattus losea); và E. wichmanni chiếm tỷ lệ khá cao 30,2% trong tổng số cá thể thu thập được, ký sinh có mật độ 4,8 con trên chuột đồng bé (Rattus losea).
- Nhà bệnh nhân ở đồi núi, có cây lâu năm: 41,1%.
- Bệnh nhân có đi làm rẫy trong núi rừng:88,2%.
- Bệnh nhân là người lớn (từ 16 tuổi trở lên): 85,9%.
- Bệnh nhân là trẻ em:14,1%.
- Bệnh nhân là người lớn nam giới: 32,8%.
- Bệnh nhân là người lớn nữ giới:67,2%.
 |
Sinh cảnh rừng trồng ở Duy Sơn – Duy Xuyên. |
Ở Quảng Nam bệnh Bệnh sốt mò đã có ở 8 huyện/ thị: Tp. Tam Kỳ, Bắc Trà My, Duy Xuyên, Phước Sơn, Nam Giang, Phú Ninh, Núi Thành và Tiên Phước, trong đó số bệnh nhân chủ yếu có ở: Duy Xuyên, Phước Sơn và Nam Giang.
Các cấp y tế tỉnh, huyện trong tỉnh Quảng Nam truyền thông (chú trọng ở Duy Xuyên, Phước Sơn, Nam Giang, Phú Ninh) cho người dân hiểu về bệnh sốt mò, khuyến cáo người dân cách phòng bệnh sốt mò, vùng dịch tễ bệnh sốt mò như: Khu vực rừng núi thấp cây bụi, rừng trồng, rừng tự nhiên. Người dân hạn chế đi vào rừng núi, nếu thường xuyên làm việc, đi lại khu vực này nên mặc quần áo có dây chun buộc chặt ở ống quần, tốt nhất là mặc quần áo tẩm hóa chất diệt côn trùng thuộc nhóm Pyrethroid, khi đi về nên thay đồ ngay không nên mặc đi lại nhiều lần.