Phòng chống vector:
Mục đích của phòng chống vector là giảm sự tiếp xúc giữa con người với vector gây bệnh ở người. Phòng muỗi đốt có thể ngăn ngừa sốt rét cũng như các bệnh lây truyền qua muỗi khác. Sự loại trừ sốt rét ở một khu vực không nhất thiết phải loài trừ hết tất cả các loài Anopheles trừ các loài có khả năng truyền bệnh. Ơ Bắc Mỹ và Châu Âu, các loài muỗi có khả năng truyền sốt rét vẫn còn hiện diện, nhưng ký sinh trùng đã được loại trừ. Kính tế xã hội phát triển (như nhà cửa có rèm chắn muỗi, điều hoà không khí) kết hợp với việc giảm tiếp xúc với vector và hiệu quả của điều trị đã dẫn tới việc loại trừ sốt rét khi chưa hoàn toàn loài trừ vector. Phòng chống vector sốt rét bao gồm giảm nguồn sinh (phòng chống bọ gậy), phun tồn lưu trong nhà và màn tẩm hoá chất.
Phòng chống bọ gậy:
Phòng chống bọ gậy là biện pháp được lựa chọn cho phòng chống vector khi mà các loài muỗi đã tập trung thành các nhóm nhỏ ở các vùng phân bố riêng rẽ. Nơi sống của bọ gậy có thể bị phá bỏ bằng cách lấp các hố đọng nước, làm khô ráo đầm lầy, hoặc khai thông cống rãnh để làm chuyển động các vùng nước đọng. Những nơi muỗi đẻ, nói chung con người có thể được huấn luyện nhưdi chuyển hoặc che đậy các vật dụng như bình, tách chén và các thùng đựng nước mưa quanh nhà. Muỗi đẻ ở các hệ thống nước nông nghiệp có thể phòng chống nếu quản lý một cách thông minh, đối với một số loài muỗi, thì việc loại trừ chổ ở thì không thể thực hiện được. Một vài loài khác, hoá chất diệt côn trùng có thể áp dụng trực tiếp đến nới sống của bọ gậy; một vài biện pháp khác ít phá vở môi trường được ưu tiên:
-Có thể áp dụng đối với nước mặt, làm nghẹt thở đối với bọ gậy và lăng quăng. Hầu hết các loại dầu sử dụng hiện nay có thể phân huỷ nhanh chóng.
-Biện pháp phòng chống sinh học bao gồm độc tố từ vi khuẩn như Bacillus thuringiensis var. israelensis. Những sản phẩm này được ứng dụng như các hoá chất diệt côn trùng khác. Chúng đặc trưng, chỉ tác động đối với muỗi, ruồi, muỗi vằn.
-Giảm bọ gậy là sự biện pháp tốt phòng chống vector. Bọ gậy muỗi thường tập trung vào một vùng rõ rệt, và tiêu diệt trước khi chúng chuyển sang giai đoạn lan truyền bệnh.
Thật không may, giảm nguồn này thường khó khả thi. Nơi ở của bọ gậy thường nhỏ, phân tán rộng và ngắn ngày. Anopheles gambiae, một vector chủ yếu ở Châu Phi, đẻ nhiều ở các vùng nhỏ hình thành sau cơn mưa. Bọ gậy phát triển chỉ sau vài ngày, trốn thoát khỏi vũng nước trước khi nó khô ráo. Ngoài ra khó dự báo nơi muỗi sinh sản, tìm kiếm và diệt trước khi chúng trưởng thành. Vì vậy, phòng chống bọ gậy trong phòng bệnh sốt rét ở Châu Phi không được chú ý ở diện rộng.
Phun tồn lưu trong nhà:
Nhiều loài vector sốt rét sống trong nhà (endophilic), đậu trong nhà sau khi đốt máu. Những loài muỗi này thì thuận lợi cho việc phòng bằng cách phun tồn lưu trong nhà(indoor residual spraying-IRS). Giống như tên gọi, IRS phun lớp ngoài bao phủ tường và toàn bộ mặt ngoài nhà với hóa chất diệt tồn lưu. Trong vài tháng, hóa chất vẫn có khả năng diệt muỗi và những loài côn trùng khác đến và tiếp xúc với bề mặt. IRSkhông ngăn cản trực tiếp con người khỏi muỗi đốt. Tuy nhiên, chúng thường tiêu diệt muỗi trước khi chúng tấn công con người, nếu chúng đến và đậu vào tường vách có hóa chất. Như vậy IRS ngăn chặn sự lan truyền bệnh đối với người khác. Với những tác dụng đó, IRS được áp dụng rộng (thường hơn 70%).
|
phun DDT lên tường vách |
ISR với DDT và dieldrin là phương pháp phòng chống sốt rét chủ yếu trong suốt thời gian chương trình Tiêu diệt sốt rét Toàn cầu (Global Malaria Eradication Campaign) 1955-1969. Chiến dịch không đạt được mục tiêu ban đầu nhưng đã loại trừ được sốt rét một số vùng và giảm rõ nét về gánh nặng tử vong sốt rét một số nơi. Sự kháng DDT và dieldrin và nổi lo lắng về tác động môi trường của chúng dẫn đến cho các loại hóa chất khác, đắt tiền hơn. Giống như sự thất bại của chiến dịch loài trừ, trách nhiệm về việc duy trì luân phiên cho một số quốc gia màn tính đặc hiệu nơi không có khẳ năng tài chính lớn. Chiến dịch thất bại tại một số vùng, sốt rét quay trở lại đối với các cấp độ khác nhau. Như vậy giá trị của IRS, từ sự công khai sự thật bài của chiến dịch tiêu diệt sốt rét toàn cầu, sự lo lắng về môi trường về hóa chất tồn lưu, hiên nay IRS thì hiếm khiở một vài vùng trung tâm.
Màn tẩm hóa chất:
Màn tẩm hóa chất (Insecticide-treated bed nets-ITNs) là một dạng bảo vệ cá nhân đã làm giảm mắc và tử vong do sốt rét tại các vùng lan truyền. Một cuộn thăm dò cộng đồng ở Châu Phi cho thấy ITNs làm giảm chết 20% ở tất cả các nguyên nhân.
Màn không tẩm hóa chất hình thành một barrier bảo vệ quanh người sử dụng. Tuy nhiên, muỗi có thể đốt người qua màn, kể cả màn với những lổ nhỏ, nếu qua nhỏ có thể bảo vệ. Sự ứng dụng hóa chất tồn lưu làm tăng giá trị rất lớn chức năng bảo vệ của màn. Hóa chất sử dụng có thể tiêu diệt muỗi và côn trùng khác. Hóa chất cũng có tác dụng xua và làm giảm muỗi bay vào nhà và đốt người. Với điều kiện đó, nếu tỷ lệ bảo phủ màn lớn, thì số lượng và thời gian sống của muỗi sẻ giảm. khi điều này xảy ra, tất cả các thành viên trong cộng đồng được bảo vệ, không chú ý đến màn của ai. Để đạt được những tác động trên, phù thuộc vào sự bao phủ toàn dân, như phun tồn lưu trong nhà chẳng hạn.
Hiện có nhiều loại màn và nhiều kích cỡ, chất liệu, và xử lý. Hầu hết màn được làm bằng sợi polyester những cũng có màn làm bằng cotton, polyethylene hoặc polypropylene. Hiện nay, chỉ có nhóm pyrethroid được sử dụng trong tẩm màn. Hóa chất có độc tính thấp đối với động vật có vú nhưng có độc tính cao với côn trùng và có tác dụng knock-down nhanh, ngay cả liều thấp. Pyrethroids có tác dụng tồn lưu tốt: khó bị phân hủy trừ khi giặt hoặc dưới tác động của ánh sáng mặt trời.
Để duy trì hiệu lực của màn tẩm ITNs, màn nên tẩm lại 6-12 tháng, và tẩm lại nhiều hơn nếu màn đã bị giặt. Tẩm lại chỉ đơn giản là nhúng vào dung dịch hóa chất và phơi màn tẩm vào bòng râm cho khô. Dụng cụ cho tẩm lại màn có sẳn ở các nước. Sự tẩm lại màn thường xuyên là một việc khó khăn để đạt được toàn diện đối với các nước. Bên cạnh đó giá cả hóa chất và sự kém hiểu biết cũng là nguyên nhân làm giảm qua trình tẩm lại màn ở các nước Châu Phi. Một vài công ty đã phát triển màn tẩm tồn lưu dài và theo lý thiết vần tồn lưu lượng hóa chất trong thơi gian tồn tại của màn (3-5 năm). CDC đang thử nghiệm một số màn tẩm trên tại Kenya và Malawi.
Một vài biện pháp phòng chống vector khác:
Phun sương hay phun khu vực chủ yếu ở các trường hợp khẩn cấp: chưa nắm chắt vùng dịch hay làm giảm nhanh muổi trưởng thành. Phun sương phải tiến hành trùng với thời điểm hoạt động cao của muỗi, bởi vì nơi nghỉ của muỗi thường được phát hiện rất khó hóa chất tiếp cận được. (ví như dưới lá cây, khe nhỏ).
Biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng rèm cửa, INTs, và kem xua (như DEET) và mặc quần áo màu sáng, quần áo dài. Tốt nên xây dựng nhà với của sổ có màn chắn và tác dụng tốt cho bảo vệ khỏi bị muỗi đốt và lan truyền bệnh sốt rét như ở Châu Âu và Mỹ.
Phóng thích muỗi đực vô sinh đã thành công và được áp dụng ở một vài khu vực nhỏ. Tuy nhiên, việc cần một lượng lớn muỗi phóng thích vào thiên nhiên là không thể. Sự biến đổi gien ở vector sốt rét với mục đích phát triển các loài muỗi chống lại ký sinh trùng, phương pháp này đang áp dụng tại thực địa.