Thông thường ta nghe nói đến mổ người, mổ gia súc, mổ gia cầm ... là chuyện bình thường. Trong ngành chuyên khoa côn trùng y học, một kỹ thuật cổ điển và thường quy cơ bản được tiến hành thực hiện tại một số cơ sở có bệnh sốt rét lưu hành hay trong các vụ dịch sốt rét là phương pháp mổ muỗi. Mổ muỗi nhằm mục đích nghiên cứu một số tính chất sinh lý của muỗi, xem muỗi có mang ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể không, muỗi đã đẻ bao nhiêu lần và sống được bao nhiêu ngày, muỗi hút máu người hay máu súc vật, sự phát triển của trứng có đi đôi với sự tiêu hóa máu không ? Đây là cơ sở giúp xác định loài nuỗi nào nguy hiểm, thời điểm nào có nhiều hoặc ít muỗi nguy hiểm hoạt động để xây dựng kế hoạch thực hiện các biện pháp phòng chống bệnh sốt rét hiệu quả.
Muỗi Anopheles là trung gian truyền bệnh sốt rét
Ai cũng biết rằng bệnh sốt rét do muỗi truyền. Trong 59 loài muỗi Anopheles có mặt tại Việt Nam, 15 loài đã được xác định là muỗi truyền bệnh chính, muỗi truyền bệnh phụ và muỗi nghi ngờ truyền bệnh sốt rét. Muỗi truyền bệnh chính gồm An.minimus hoạt động ở vùng rừng núi trên toàn quốc, An. dirus hoạt động vùng rừng núi ở vĩ độ 20 từ Bắc trở vào Nam và An. sundaicus hoạt động ở vùng ven biển nước lợ Nam Bộ. Chỉ có muỗi cái mới có khả năng truyền bệnh sốt rét và tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác định một loài muỗi Anopheles là trung gian truyền bệnh sốt rét phải có sự hiện diện của thoa trùng (sporozoites) trong tuyến nước bọt của muỗi. Để phát hiện được thoa trùng, có thể thực hiện kỹ thuật mổ muổi dưới kính lúp để tìm sự hiện diện của thoa trùng trong tuyến nước bọt muỗi hoặc sử dụng kỹ thuật Elisa (Enzyme-linked immunosorbent assay) để phát hiện protein thoa trùng (circumsporozoitenprotein) trong cơ thể muỗi. Mổ muỗi là kỹ thuật cổ điển truyền thống đơn giản có thể thực hiện được ở tất cả các cơ sở, còn kỹ thuật Elisa đòi hỏi phải có điều kiện về trang thiết bị hiện đại hơn.
Tại sao thoa trùng ở tuyến nước bọt muỗi có vai trò truyền bệnh ?
Chu kỳ phát triển của ký sinh trùng sốt rét trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn phát triển vô tính trong cơ thể người và giai đoạn phát triển hữu tính trong cơ thể muỗi. Khi muỗi Anopheles cái hút máu người bệnh có mang ký sinh trùng sốt rét thể giao bào đực và giao bào cái vào dạ dày, chúng sẽ phát triển thành giao tử đực và giao tử cái. Một giao bào cái phát triển thành một giao tử cái trưởng thành. Một giao bào đực phát triển thành nhiều giao tử đực trưởng thành bằng hiện tượng thoát roi. Giao tử đực hòa hợp với nhiều giao tử cái tạo nên hợp tử (Zygote). Hợp tử chuyển động và trở thành trứng di động(Ookynete). Trứng này chui qua thành dạ dày muỗi rồi trở thành trứng nang (Oocyste). Khi trứng nang phát triển thành trứng nang già bên trong có khoảng 10.000 thoa trùng (Sporozoites). Trứng nang già vỡ, các thoa trùng đến tập trung trong tuyến nước bọt của muỗi. Khi muỗi đốt người, thoa trùng từ tuyến nước bọt của muỗi truyền bệnh sẽ xâm nhập vào cơ thể người để tiếp tục chu kỳ sống bằng giai đoạn phát triển vô tính của ký sinh trùng trong cơ thể người và gây nên bệnh sốt rét. Vì vậy khi mổ tuyến nước bọt của muỗi Anopheles cái phát hiện có sự hiện diện của ký sinh trùng sốt rét thể thoa trùng thì có thể xác định loài muỗi này có vai trò truyền bệnh tại đây, hay nói một cách khác nó là thủ phạm truyền bệnh sốt rét tại chỗ.
Kỹ thuật mổ muỗi như thế nào ?
Mổ muỗi là một vi phẩu thuật vì cá thể muỗi trưởng thành quá nhỏ, phải thực hiện dưới kính lúp hai mắt có bàn mổ muỗi và kính hiển vi hai mắt để phóng đại hình thể cần xem. Nên tiến hành mổ và định loại muỗi ngay trong ngày. Nếu bắt muỗi buổi sàng thì mổ và định loại vào buổi chiều, nếu bắt muỗi ban đêm thì sáng hôm sau mổ và định loại. Muỗi phải được gây mê bằng ether hoặc chloroforme trước khi mổ và phẩu thuật viên mổ muỗi trên lam kính qua kính lúp bằng phương pháp kỹ thuật vi phẩu quy định. Trong quá trình mổ, có thể ghi nhận kết quả về độ già của trứng, tuổi sinh lý của muỗi, muỗi đã đẻ hay chưa đẻ, thấy được trứng nang (Oocyste) ở thành dạ dày muỗi và thoa trùng (Sporozoites) ở tuyến nước bọt muỗi. Muốn nhìn thấy được thoa trùng tươi, tụ quang của kính hiển vi phải hạ thấp xuống để ánh sáng có độ sáng vừa phải. Nếu thấy trong tuyến nước bọt có những hình thể giống như móng tay cắt ra, trắng trong, nằm xếp lại với nhau, những hình thể này cử động theo kiểu gợn sóng là có sự hiện diện của thoa trùng. Chú ý để tránh nhầm lẫn với chuyển động của trực trùng vì thoa trùng dài gấp 1,5 lần trực trùng và có hai đầu thon nhọn. Nếu có nghi ngờ thoa trùng thì nhuộm tiêu bản bằng giemsa và dùng vật kính dầu của kính hiển vi để soi kiểm tra. Thoa trùng có hình luỡi liềm, ở giữa thoa trùng là nhân bắt màu đỏ, có thể thấy màu tím hoa cà thẩm. Nếu nhuộm tốt, thoa trùng có nhân ở giữa màu đỏ, hai đầu bắt màu xanh và gần nhân màu hồng tím. Sự hiện diện của thoa trùng trong tuyến nước bọt là cơ sở để xác định vai trò truyền bệnh của loài muỗi Anophles đang có mặt và hoạt động lây truyền bệnh tại địa phương.
Dùng kỹ thuật Elisa thay thế kỹ thuật mổ muỗi cổ điển, đơn giản
Với sự tiến bộ của nền khoa học kỹ thuật hiện đại, việc xác định vai trò truyền bệnh của loài muỗi Anopheles hiện nay được thực hiện bằng sử dụng kỹ thuật thử nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết-enzyme gọi là Elisa (Enzyme-linked immunosorbent assay) để phát hiện protein của thoa trùng (circumsporozoite protein) trong cơ thể muỗi. Kỹ thuật này đòi hỏi phải có những trang thiết bị dụng cụ đồng bộ và điều kiện kinh tế cho phép của một phòng thí nghiệm ở tuyến trên. Đối với các cơ sở, ngay cả Trung tâm Phòng chống Sốt rét-Ký sinh trùng và Trung tâm Y tế Dự phòng tuyến tỉnh hiện tại cũng chưa được trang bị kỹ thuật hiện đại này để có điều kiện thực hành nhiệm vụ công tác. Vì vậy, kỹ thuật mổ muỗi cổ điển, đơn giản xác định vai trò truyền bệnh của loài muỗi Anopheles hoạt động tại các địa phương cơ sở vẫn là kỹ thuật mà cán bộ làm công tác côn trùng y học còn phải tiếp tục sử dụng để thực hiện nhiệm vụ của mình trước khi được trang bị kỹ thuật Elisa hiện đại .