Đặc điểm sinh học
Bọ chét là loài côn trùng nhỏ, con trưởng thành ký sinh trên chim và động vật, là loài côn trùng dễ dàng nhận biết qua màu sắc đặc biệt có màu nâu, có khả năng nhảy, kích thước từ 1-8 mm., không có cánh. Con trưởng thành hút máu trên chim và động vật có vú, dễ dàng nhận ra bởi vì thân hình dẹt, thường có màu nâu và có khả năng nhảy rất xa. Con đực và con cái đều hút máu, kích thước từ 1-8mm. một số loài nhỏ có hình bầu dục. Xung quanh có nhiều chùm lông, bóng, có màu vàng nâu gần như là màu đen. Con trưởng thành thường sống kí sinh, khoảng 94% trên động vật có vú và 6% là trên chim. Ấu trùng dài, không có mắt và chân. Thức ăn chủ yếu là các chất hữu cơ có trong tổ hay trên vật chủ kể cả máu khô mà con mẹ hút cho. Bọ chét thuộc bộ Siphonaptera, có khoảng 2500 loài và phân loài. 239 giống, 15 họ được phân bố trên toàn thế giới. tuy nhiên chỉ có một vài loài có vai trò Y học. |
Vòng đời của bọ chét |
Vòng đời của bọ chét
--Trứng có màu bóng sáng, trắng, hình bầu dục hoặc hình tròn, được đẻ trên các sợi tóc, lông của vật chủ hoặc trong tổ. Bọ chét cái có thể đẻ từ 300 đến 500 trứng trong suốt vòng đời phát triển từ 6 tháng tuổi đến 1 năm.
-Trứng nở từ 2 -3 tuần - nhiệt độ và độ ẩm ảnh hưởng đến thời gian nở trứng.
-Ấu trùnggồm 13 đoạn, không có chân với phần đầu và miệngcó sắc tố khác biệtấu trùng trưởng thành nhỏ hơn 1 cm). Thức ăn là những mảnh vụn chất hữu cơ. Có 3 giai đoạn phát triển của ấu trùng, làm kén, giai đoạn sử dụng các mảnh vụn hữu cơ và giai đoạn nhộng.
-Tuổi thọ của giai đoạn ấu trùng phụ thuộc vào từng loài và các điều kiện về thức ăn, khí hậu. Phần miệng của bọ chét trưởng thành thích nghi với việc hút và chích, đôi mắt biến mấtở một số loài và một số thì luôn luôn đơn giản. Ngực có3 đốt, bụng 10-12 đốt. Bọ chét có thể sống đến 1 năm nếu không hút máu và có thể sống trên 5 nămnếu đầy đủ thức ăn. Đặc điểm quan trọng để phân loại bọ chét là tấm lược có màu đen, lông cứng dày nằm trên mép sau của má, hoặc trên mặt.
 |
Trứng của bọ chét
|
Đặc điểm chính để phân loại
-Không có tấm lược, và tấm bảo vệ, ngực giữa có ống thở thuộc nhóm loài Xenopsylla, ngực giữa không có ống thở có các nhóm loài (Pulex irritans, Tunga penetrans, Echidnophaga gallinaceam).
-Không có tấm lược, có tấm bảo vệ: thuộc nhóm loài Nosopsyllus fasciatus được tìm thấy ký sinh trên chuột, xuất hiện ở một số nước châu Âu.
-Xuất hiện tấm lược, và tấm bảo vệ, nếu không có mắt là loài bọ chét (Leptopsylla segnis), xuất hiện trên chuột. Với đôi mắt là nhóm loài Ctenocephalides sp, xuất hiện trên chó và mèo.
Vai trò y học
Bệnhnút sần: Vết cắn gây khó chịu, làm sưng tấy, rát da.
Bệnh dịch hạch (Yersinia pestis): Một loại bọ chét có vai trò truyền bệnh quan trọng có thể gây thành dịch là bệnh dịch hạch. Dịch hạnh do vi khuẩn Yersinia pestis gây ra. Đầu tiên dịch hạch xảy ra ở các động vật hoang dại như chuột và các loài gậm nhấm khác. Con người có thể bị nhiễm bệnh dịch hạch do bọ chét hút máu động vật mắc dịch hạch và truyền sang cho người qua vết chích đốt. Trước đây, bệnh dịch hạch được gọi là cái chết đen và gây ra các vụ dịch thảm khốc. Dịch hạch hiện nay vẫn còn là bệnh rất nguy hiểm vì nó thường xảy ra rộng rãi ở quần thể của các loài gậm nhấm. Ở vùng nông thôn, miền núi, dịch hạch xảy ra khi con người đi vào và tiếp xúc với các loài động vật hoang dã. Nguy hiểm nhất là những người thợ săn, họ có thể bị bọ chét đã nhiễm bệnh dịch hạch chích đốt trong khi mang vác các động vật vừa giết được. Ở các đô thị, dịch hạch có thể xảy ra khi chuột sống quanh những khu dân cư bị nhiễm bệnh. Bọ chét chuột (Xenopsylla cheopis,X.astia, X.brasiliensis) bình thường chích đốt chuột nhưng thỉnh thoảng có thể chích đốt người và truyền bệnh sang cho con người. Khi chuột hay các loại động vật gậm nhấm nhiễm vi khuẩn dịch hạch và bị chết, bọ chét sẽ rời vật chủ, có thể tấn công, chích đốt người và truyền bệnh qua vết đốt. Loài bọ chét người cũng có thể có khả năng truyền bệnh từ người mắc bệnh sang người lành khi bị chích đốt máu.
Bọ chét truyền dịch bệnh, bệnh sốt phát ban (Rickettsia typhi)
Bọ chét chuột, bọ chét mèo cũng có thể truyền bệnh sốt phát ban, mầm bệnh là rickettsia typhi được truyền từ con chuột này sang con chuột khác, Biểu hiện bệnh gần giống như sốt phát ban do chấy rận, nhưng nhẹ hơn. Hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc: thường sốt cao quanh 40oC nhưng không phân li với mạch, đau đầu nhiều. Ban xuất hiện ngày thứ 6 của bệnh, lúc đầu là ban dát, sau là dát và sẩn mọc ở toàn thân kể cả đầu, mặt, gan bàn tay, chân. Bệnh thường kéo dài 12-14 ngày thì hết sốt, các triệu chứng cũng lui và thường không có biến chứng. Trường hợp nặng thường chỉ gặp ở người già, người suy giảm miễn dịch với các biểu hiện: viêm não, viêm cơ tim, mất nước nặng. Xét nghiệm tìm được kháng thể đặc hiệu với R.typhi trong huyết thanh bệnh nhân bằng phản ứng cố định bổ thể hoặc miễn dịch huỳnh quang. Bệnh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới và thường thấytại các vùng con người sống ở trong nhà có nhiều chuột . Đôi khi bọ chét cũng có khả năng truyền một số bệnh khác do vi khuẩn hoặc ký sinh trùng từ động vật sang người như bệnh do sán dây Diphlidium caninumtrên chó và mèo mà trẻ em thường chơi đùa với các động vật nuôi trong nhà nên khả năng lây nhiễm sán nhiễm phải các bọ chét mang sán ở giai đoạn có thể gây nhiễm (infective larvae), trứng ấu trùng trong phân. Một số loài sán có thể gây nhiễm là Hymenolepis diminuta và Hymenolepis nana.
Các loàibọ chét
Xenopsylla sp. là loài sống, phát triển ở nhiệt độ cao và có thể tồn tại trong các tòa nhà của những thành phố cảng ở vùng khí hậu nhiệt độ nóng.
X. Cheopsis là loàibọ chét sống trên chuột Phương Đông, bọ chét bệnh dịch hạch. Phân phối rộng rãi tại Trung Quốc, Châu Á, Châu Phi và các thành phố cảng của hầu hết các nước có nhiệt độ nóng.
|
Hình 5: Pulex irritants |
X. astia xuất hiện chủ yếu là Ấn Độ và phương Đông
X. Braziliensis có nguồn gốc từ châu Phi và bây giờ là khá phổ biến trên thế giới.
Ctenocephalides sp. là nhóm loài ký sinh trên chó và mèo xuất hiện trên toàn thế giới, cũng có thể được tìm thấy trên chuột, đốt người có 2 loài là Ctenocephalides canis (bọ chét chó), Ctenocephalides felis (bọ chét mèo).
Pulex irritantslà loài bọ chét ký sinh trênngười, phân bố rộng trên thế giới và được tìm thấy ở các nước có khí hậu ôn đới, sống ở các khách sạn, nhà hát. Loài bọ chét này có kích thước từ 2-4mm. Ngoàira còn thấy xuất hiện trên động vật như chuột cống, chó, mèo.
Nosopsyllus fasciatus được tìm thấy ở vùng ôn đới và là loài quan trọng trong việc truyền bệnh dịch hạch.
Tunga penetrans là một loài côn trùng hút máu sinh sống ở các khu vực nhiệt đới, đặc biệt là Nam Mỹ, Trung Mỹ và Tây Indies và vùng phụ cận sa mạc Sahara ở Nam Phi. Loài này hút máu, đi vào cơ thể nạn nhân từ bàn chân, sinh trưởng rồi đẻ hàng trăm quả trứng bên trong cơ thể. Sự hiện diện của bọ khiến nhiều bộ phận trên cơ thể người như môi, mông và thậm chí mí mắt, bị hoại tử. Loài bọ Tunga penetrans có thể giết chết trẻ em dễ dàng và gây hiện tượng chết sớm ở những người trưởng thành đang mắc bệnh khác. Phần lớn nạn nhân, đặc biệt là người lớn tuổi, không thể đi lại hay làm việc. Loài bọ Tunga penetrans sinh sản ở những nơi bẩn và bụi bặm, sau khi thụ tinh con cái đục da chui vào bên trong theo lỗ chân lông và đẻ trứng trong đó, con cái có mang to rất nhiều lần so với bọ không mang trứng.
Echinophaga gallinacea là loài bọ chét ít khi tấn công người, gây dịch hại nghiêm trọng đối với các trang trại gia cầm, ký sinh trên chim tuy nhiên vẫn có trường hợp ký sinh trên người.
Hystrichopsylla sp. là loài bọ chét khổng lồ, ký sinh trên các vật chủ, được tìm thấy ở các vùng ẩm ướt, H. linsdalei truyền bệnh ở trong phòng thí nghiệm, duy trì các bệnh dịch hạch trong tự nhiên, loài này không đốt người.
|
Một số triệu chứng của bệnh do bọ Tunga penetrans |
Các biện phápphòng trừ, kiểm soát bọ chét.
Lựa chọn các biện pháp kiểm soát:
-Tiêm chủng: phát triển váccin phòng ngừa, dành cho người thường xuyên tiếp xúc với bệnh.
-Phòng chống bọ chét trực tiếp.
-Phương pháp sinh học: ví dụ như sử dụng các tác nhân kiểm soát sinh học chẳng hạn như nosema (sinh vật đơn bào) và (ong bắp cày) hymenoptera pteromalid.
-Sử dụng hóa chấtdiệt bọ chét: phun hóa chất nơi sinh sản và sinh sống của chuột, đặt bả, bẫy với thức ăn cho động vật gặm nhấm; sử dụng Hydrocacbon clo (DDT) và các pyrethroid tổng hợp (permethrin) có hiệu quả cao. Phát triển tính kháng sử dụng thuốc bôi DEET hoặc Permethrin ngâm tẩm quần áo có đủ khả năng bảo vệ con người.
-Tính kháng đã được báo cáo ở bọ chét mèo, bọ chét người, nhóm loài . Trong các nhóm hóa chất đang sử dụng trên thế giới gồm:Organocholrides, Organophosphate, Carbamates, Pyrethrins và Pyrethroid. IGR (Insect growth regulator) sử dụng chất điều hòa sinh trưởng côn trùng làm ảnh hưởng lên giai đoạn trưởng thành của bọ chét.
Kiểm soát các loài thú gặm nhấm
Phải sử dụng nhiều phương pháp tiếp cận như giảm chỗ trú ẩn của chuột, giảm nguồn cung cấp thức ăn có sẵn, xác định các loài gặm nhấm từ các tòa nhà, tiêu diệt động vật gặm nhấm phá hoại. Sử dụng khí độc cyanogas, rắc hóa chất vào tổ để diệt chuột. Sử dụng bả chuột, chú ý để tránh xa trẻ em và vật nuôi trong nhà.
Một số Ký sinh trùng và bệnh liên quan
1.Murine thyphus (rickettsia mooseri)
2.Myxomatosis ở thỏ
3.Trypanosoma lewisi
4.Dipetalonema reconditum
5.Hymenolepis dimunita
6.Hymenolepis nana
7.Dipylidium caninum
8.Yersinia pestis (bệnh dịch hạch)
9.Tungapenetrans (ngứa, lở loét và nhiễm trùng thứ cấp)
Cơ chế lan truyền bệnh
Các loài bọ chét này có thể truyền bệnh dịch hạch qua miệng của chúng, bọ chét nhiễm với bệnh dịch hạch từ một vật chủ của loài động vật gặm nhấm. Sau đó tìm kiếm một vật chủ mới khác động vật gặm nhấm, nhưng nếu không tìm được loài găm nhấm thì chúng có thể đốt người và lây bệnh cho con người.