Giáo sư Đặng Văn Ngữ là người con gốc Huế, sinh ngày 04/04/1910 tại phường An Cựu, thành phố Huế, xuất thân trong một gia đình thành phần tiểu tư sản trí thức. Sau khi tốt nghiệp Đại học Y Hà Nộivào năm 1936, một năm sau giáo sư Đặng Văn Ngữ kết hôn cùng bà Tôn Nữ Thị Cung. Thoạt đầu, ông cùng một số bác sĩ mở phòng mạch tư (Clinic) khám bệnh, nhưng rồi không lâu sau ông thôi hẳn công việc phòng mạch để chú tâm vào công việc nghiên cứu và làm trợ giảng tại trường Đại học y khoa Hà Nội (cho dù phụ cấp của giảng dạy chỉ bằng khoảng 1/10 thu nhập từ phòng mạch), cuối năm 1942 đầu 1943 ông được chính phủ Pháp cử sang Nhật du học để từ đó ông bắt đầu nghiên cứu về nấm học, đi theo lý tưởng khoa học. Sau 7 năm tu nghiệp và nghiên cứu y khoa tại Nhật, với suốt chặng đường dài, trong hành trang của ông chỉ có hai bộ quần áo kaki, một lọ đựng một thứ nấm có khả năng tiết ra chất kháng sinh penicilline mà ông đã phát hiện được trong thời gian làm việc ở phòng thí nghiệm tại Tokyo (sau này ông đã chiết và sản xuất hàng loạt penicilline, chữa bệnh cho bộ đội và thương bệnh binh), và một vật mà đến nay, con trai ông-Nghệ sĩ nhân dân Đặng Nhật Minh còn giữ làm kỷ vật là chiếc kính hiển vi nhỏ bằng một gang tay; đây là món quà mà ông định hướng con trai ông theo con đường khoa học. Để được gần gũi và phụ giúp với chồng, bà Tôn Nữ Thị Cung cũng xin vào làm việc tại phòng bào chế penicilline, rồi trở thành một cán bộ y tế từ đó.
Từ thuở thiếu thời đã chứng kiến những ngày đồng bào ta khổ cực dưới ách thực dân, vì thế ông luôn mang trong mình ước muốn trở thành người thầy thuốc giúp ích cho đời. Khởi đầu trong những ngày du học ở Nhật tình cờ đọc được lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đành gác lại công việc nghiên cứu khoa học để về nước tham gia công việc chung của dân tộc. Giáo sư từ Nhật Bản đáp tàu thủy về Thái Lan, tìm gặp đại diện của Chính phủ Việt Nam ta ở Bangkok để xin về nước tham gia kháng chiến mà chẳng có một tổ chức nào giới thiệu lúc đó cho ông. Ông làm việc đó vì một lẽ tự nhiên và chỉ vì một động cơ duy nhất: Lòng yêu nước.
Với công việc chính là nghiên cứu bệnh sốt rét, ông lại lặn lội trở về những khu căn cứ địa cũ như Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Lào Cai,…để thực hiện chương trình chống sốt rét toàn diện và quy mô chưa từng có (theo lờikể của Đặng Nhật Minh). Trong những ngày chiến tranh leo thang ra miền Bắc, ông vẫn tiếp tục đi về các địa phương chỉ đạo công tác sốt rét. Nhưng ông nhanh chóng nhận ra rằng nếu không ngăn chặn căn bệnh này từ bên kia vĩ tuyến 17 thì không thể nào giữ đựợc thành quả của công cuộc chống sốt rét ở miền Bắc. Để phát động chương trình tiêu diệt bệnh sốt rét trên phạm vi miền Bắc Việt Nam, ông đã tiến hành điều tra cơ bản toàn diện về bệnh sốt rét làm cơ sở cho cuộc phòng chống căn bệnh nguy hiểm mà hàng ngày giết đi bao nhiêu sinh mạng con người.
Công trình điều tra mang tính khoa học, không kém phần công phu, tạo ra một sản phẩm “ Bảng phân vùng dịch tễ sốt rét ở miền Bắc Việt Nam” (và cũng chính bảng phân vùng này, về sau một số nhà khoa học và chuyên gia ký sinh trùng Việt Nam đã phát triển và đổi mới và phù hợp với từng vùng và can thiệp dựa trên bảng đó). Trên cơ sở phân vùng sốt rét, ông cùng các đồng nghiệp đã lựa chọn các biện pháp phòng chống phù hợp và có hiệu quả với từng vùng dịch tễ cho nên chỉ 10 năm sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tỷ lệ mắc bệnh sốt rét giảm được 15-20 lần và theo dõi rất chặt chẽ hiệu quả các biện pháp phòng chống, giáo sư Đặng Văn Ngữ đã phát hiện một số vùng mà ông gọi là vùng sốt rét xuống chậm. Nghiên cứu vùng sốt rét xuống chậm (sau này gọi là vùng sốt rét dai dẳng) chúng ta đã phát hiện muỗi truyền bệnh trú đậu ngoài nhà, ký sinh trùng kháng thuốc và tìm được biện pháp khắc phục hữu hiệu. Khi dân số bị di biến động nghiêm trọng do chiến tranh gây ra cũng từ bản phân vùng này chúng ta vẫn phân biệt được đâu là vùng sốt rét lưu hành, đâu là chủng ký sinh trùng từ miền Nam xâm nhập miền Bắc để có biện pháp đối phó kịp thời.
Những tin tức về con số thương vong to lớn do sốt rét gây ra cho chiến sĩ quân dân ta ở chiến trường càng làm ông day dứt không yên. Cuối cùng ông đi đến một quyết định là vào chiến trường Trị Thiên để nghiên cứu tại chỗ một vaccine miễn dịch sốt rét rồi ứng dụng ngay tại chỗ cho bộ đội ta và trong quyết định này của ông còn có một sự thôi thúc nữa là về lại mảnh đất chôn rau, cắt rốn của mình (Huế), nơi đó ông hy vọng trong chuyến đi này có thể trở về gặp lại người mẹ già, dù chỉ một lần (Đặng Nhật Minh, Hồi ký điện ảnh, 2005). Nhữngmong đến ngày đất nước thống nhất, có thể về Huế được thì ông đã không còn. Ông đã mất trước đó 8 năm trong một trận bom B52 ở phía tây, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Mơ ước của ông là chế tạo được vaccine phòng bệnh sốt rét, thế nhưng ông đã “chia sẽ cái chết” cùng với họ rồi.
Nhân cách ấy, con người ấy, những công trình nghiên cứu đồ sộ với sự nghiêm túc trong khoa học mà ông để lại luôn in đậm dấu ấn. Khi đang học đại học, thiên hướng nghiên cứu khoa học đã nổi trội trong ông. Năm 1936, sau khi tốt nghiệp đại học y khoa, ông đã chọn ngành ký sinh làm sự nghiệp với luận án “Góp phần nghiên cứu về áp xe gan ở Bắc Kỳ” và ở lại làm trợ lý cho một số giáo sư. Chính trong thời gian này ông đã hoàn thành nhiều công trình khoa học về ký sinh trùng (điều tra cơ bản ký sinh trùng đường ruột; điều tra cơ bản bệnh giun chỉ, điều tra cơ bản muỗi ở Việt Nam). Ông đã phát hiện nhiều loài Aedes, Anopheles, Culex, Mansonia truyền bệnh ký sinh trùng và vius cho người. Công trình điều tra muỗi Anopheles là công trình cống hiến rất to lớn. Trước đó chỉ có tác giả E.Brrel, C.Toumanoff mô tả các loài muỗi mới và đặt tên là Anopheles tonkinensis . Lĩnh vực điều tra cơ bản nấm, ông là người đầu tiên mô tả nấm Piedraia hortai ở người Việt Nam mà trước đó người ta chỉ biết chúng tồn tại chỉ ở châu Phi.
Thời gian ông học tập và tu nghiệp tại Nhật, được sự khuyến khích và động viên, hướng dẫn của giáo sư M. Ota ông đã tìm được giống nấm tiết ra penicilline. Cũng trong thời kỳ này giáo sư Đặng Văn Ngữ đã tham gia công trình nghiên cứu về tiêu chuẩn hóa huyết thanh chứa kháng thể kháng siêu vi, đây là lĩnh vực rất non trẻ không những ở Việt Nam và cả các nước trên thế giới.
Về nước năm 1948 ông lao ngay vào cuộc kháng chiến thần thánh, vừa tập trung mọi trí tuệ và nguồn lực để nghiên cứu sản xuất hàng loạt penicilline. Trong điều kiện chiến khu phải dùng nước thân ngô nuôi cấy, ông đã sản xuất được nước lọc penicilline , áp dụng chữa bệnh rất hiệu quả cho các vết thương chiến tranh của các thương bệnh binh. Tiếp sau thành công của penicilline, nước lọc streptomycine được sản xuất để hỗ trợ cho các trường hợp kháng penicilline. Cũng trong thời gian này với hoàn cảnh thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, giáo sư đã khonog mệt mỏi nghiên cứu sản xuất cồn từ sắn để chạy máy nổ, nghiên cứu thuốc nhuộm quần áo bằng chiết thô lá cây, chỉ đạo tổ chức các đội phòng chống côn trùng,…
Khi hòa bình lập lại, ông cùng các đồng nghiệp khác được Nhà nước giao trọng trách phục hồi và phát triển Trường đại học y khoa Hà Nội. Giáo sư Đặng Văn Ngữ phụ trách giảng dạy ba bộ môn: sinh lý học, sinh vật và ký sinh trùng. Ông cũng là người sáng lập Viện sốt rét-KST-CT Trung ương vào năm 1957.
Giáo sư Đặng Văn Ngữ còn là người có công rất lớn trong việc điều tra cơ bản ký sinh trùng và động vật chân khớp truyền bệnh. Cho đến hiện nay từ thành quả của công trình này, nhiều đầu sách động vật chí đã được xuất bản như: khu hệ mò đỏ (truyền bệnh sốt mò), khu hệ bọ chét (truyền bệnh dịch hạch), khu hệ ve (truyền bệnh sốt phát ban, viêm não...), khu hệ mạt (truyền bệnh sốt hồi quy...), khu hệ muỗi (truyền bệnh giun chỉ, sốt rét, bệnh sốt Dengue và một số bệnh virus khác...).
Nước Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, ôn độ và ẩm độ trung bình cao quanh năm, miền núi thì nhiều khe suối, rừng rậm, ở đồng bằng thì nhiều ao hồ nước đọng. Đó là những điều kiện thuận lợi để các vật trung gian truyền bệnh ký sinh trùng và các loại ký sinh trùng phát triển, đồng thời Việt Nam lại là một quốc gia có khu hệ thực vật đa dạng và phong phú, nguồn thuốc tùe thực vật có thể chữa bệnh không kém gì Trung Quốc. Với suy nghĩ đó, giáo sư Đặng Văn Ngữ đã cùng cộng sự thử nghiệm hàng trăm loại thảo mộc khác nhau và tìm ra nhiều bài thuốc có giá trị để điều trị tại tuyến y tế cơ sở. Trong tủ sách của ông có lưu một tờ báo Trung Quốc nói về tiềm năng điều trị của cây thanh hao hoa vàng mà sau này vào những năm 80 của thế kỷ trước chúng ta đã chiết xuất và sản xuất thành công artemisinin điều trị sốt rét rất hiệu quả.
Giáo sư Đặng Văn Ngữ là một trong những nhà khoa học nổi tiếng kết hợp hài hòa giữa nghiên cứu thực địa và thực nghiệm. Ngay từ thời làm trợ lý nghiên cứu ở Trường đại học y khoa ông đã thử nghiệm thành công chu kỳ sán nhái Sparganum erinacei gây bệnh ở nòng nọc. Bằng thử nghiệm này giáo sư Đặng Văn Ngữ đã làm sáng tỏ nguyên nhân sinh bệnh u sán nhái ở mắt của người Việt Nam và chính công trình nghiên cứu này đã xác định được trùng một mắt Mesocyclops liên quan truyền bệnh. Cũng bằng thực nghiệm ông đã phát hiện chu kỳ ngược của giun lươn mà trước đó chưa tác giả nào công bố.
Cách đây gần 7 năm, một số học trò, đồng nghiệp của giáo sư Viện sốt rét-KST-CT Trung ương, một số cán bộ trong đoàn đi B cùng gia đình vào xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế bốc mộ cố giáo sư Đặng Văn Ngữ. Ngày 5/12/2000 hài cốt của Liệt sĩ, Anh hùng lao động, Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã được Tỉnh ủy, UBND Thừa Thiên-Huế, Bộ Y tế cùng cơ quan, gia đình và nhân dân long trọng làm lễ cải táng đưa về nghĩa trang Đặng tộc tại An Cựu, thành phố Huế. Mộ của giáo sư Đặng Văn Ngữ đặt cạnh mộ bà Tôn Nữ Thị Cung và con gái út là Đặng Thị Nguyệt Quý. Hai bên khu mộ có câu đối rất có ý nghĩa cho một con người toàn bích: “Một tấm lòng son dâng tổ quốc; Trọn đời tri thức hiến nhân dân”.
Giáo sư Đặng Văn Ngữ ra đi, hành trang để lại không gì ngoài những kiến thức y học, những công trình đang làm dang dở, để mong cứu chữa bệnh tật cho nhân loại, ông lại là một tấm gương tận tụy, một trí thức yêu nước. Sản vật để lại cho con trai ông chính là lòng yêu quê hương, lòng thương yêu con người, sự cảm thông sâu sắc trước những nỗi khổ đau của con người. Ông không biết rằng chính những vốn quý đó đã để lại cho giới y học, nhất là các nhà khoa học chuyên ngành ký sinh trùng những bước nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực vi nấm ký sinh, và cho con trai , Nghệ sĩ nhân dân Đặng Nhật Minh, một nền tảng cơ bản mọi sự sáng tạo nghệ thuật.