Giáo sư Tôn Thất Tùng (1912-19820 được giới y học quốc tế tôn vinh là nhà bác học nổi tiếng, nhà phẫu thuật lỗi lạc và nhà phát minh trong lĩnh vựcy sinh học. Sinh thời ông được bầu làm Viện sĩ của nhiều Viện hàn lâm, hội viên của các Hội nội-ngoại khoa Hà Nội, Hội phẫu thuật Pari, Hội ngoại khoa Lyon, Hội khoa học quốc gia CHDC Đức, Hội y học ngoại khoa Bologne, Hội viên sáng lập Viện nghiên cứu nhân chủng Đông Dương.
Cuộc đời của Giáo sư Tôn Thất Tùng là một tấm gương điển hình của người trí thức Việt Nam luôn hăng say lao động khoa học và tận tụy chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Trước Cách mạng tháng Tám cả Đông Dương chỉ có duy nhất một trường thuốc tại Hà Nội mà người bản xứ không được dự các kỳ thi nội trú, giáo sư Tôn Thất Tùng là người đầu tiên đầu tiên đấu tranh bắt buộc chính quyền Thực dân Pháp phải tổ chức thi nội trú cho các bệnh viện Hà Nội.
Trong kháng chiến chống Pháp cùng với các giáo sư cùng nhiều cán bộ y tế khác, Giáo sư Tôn Thất Tùng vừa tận tình cứu chữa thương bệnh binh, vừa xây dựng các tuyến phẫu thuật, vừa đào tạo sinh viên, gắn liền điều trị với nghiên cứu khoa học; phối hợp với Giáo sư Đặng Văn Ngữ nghiên cứu sán xuất thuốc kháng sinh Penicilline phục vụ thương bệnh binh trong cuộc chiến chống Pháp và là một trong những người đầu tiên xây dựng Trường Đại học Y Hà Nội ngay từ sau Cách mạng tháng Tám.
 |
Giáo sư Tôn Thất Tùng |
Hòa bình lập lại, Giáo sư Tôn Thất Tùng đã cùng những học trò của mình xây dựng lại Bệnh viện Việt Đức, được Nhà nước cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức; ở những cương vị này Giáo sư luôn dành hết tâm huyết cho sự nghiệp đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học và phát triển ngành y tế Việt Nam.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, năm 1970 Giáo sư Tôn Thất Tùng được Nhà nước giao nhiệm vụ phát hiện tác hại của các chất diệt cỏ (Dioxin) và nghiên cứu những ảnh hưởng của chất diệt cỏ đó với sức khỏe con người với chức vụ Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu về hậu quả của thuốc diệt cỏ của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam; từ những nghiên cứu này Giáo sư chính là nhà khoa học đầu tiên lê tiếng tố cáo Đế quốc Mỹ rải chất độc Dioxin làm số người bị ung thư gan ở Việt Nam tăng vọt.
 |
Giáo sư Tôn Thất Tùng cùng vợ: bà Vi thị Nguyệt Hồ trong chuyến thăm CHDC Đức (ảnh Vietnamnet.vn) |
Trong sự nghiệp của mình Giáo sư Tôn Thất Tùng không chỉ nổi tiếng với phẫu thuật cắt gan, mổ tim mà còn có nhiều công trình nghiên cứu về các bệnh ký sinh trùng. Đặc biệt là phương pháp cắt gan, trước năm 1952 cả thế giới chưa ai dám dùng phương pháp này để chữa bệnh vì lá gan nằm sâu dưới lồng ngực, nếu không may đụng vào thì sẽ bị chảy máu cho đến chết mà không có cách nào cầm máu được. Giáo sư Tôn Thất Tùng đã đưa ra phương pháp cắt gan có kiểm soát vì phát hiện lá gan bên phải chỉ có 2 phân thùy, trong khi các nhà khoa học thời đó cho rằng lá gan bên phải có từ 3-4 phân thùy; Giáo sư cồn cho rằng bên trái là thùy trái của gan, nó dính vào sâu bằng 2 dây chằng, nếu cắt 2 dây này sẽ giải phóng được thùy trái trước khi cắt gan, cho nên cắt bỏ lá gan bên trái là dễ dàng nhất. Công trình nghiên cứu cắt gan của Giáo sư Tôn Thất Tùng được công bố trên Tạp chí The Lancet ở Luân Đôn được thế giới công nhận và trở thành quy phạm trong phẫu thuật cắt gan. Cùng với phương pháp cắt gan Giáo sư Tôn Thất Tùng còn nổi tiếng thế giới trong các trường hợp mổ tim và sử dụng thành công máy “tim-phổi nhân tạo” trong khi mổ tim. Đối với các bệnh ký sinh trùng, Giáo sư Tôn Thất Tùng đã nghiên cứu về giun đũa trên các bệnh nhân người Việt trong thời kỳ Pháp thuộc và chứng minh rằng bệnh phù tụy ở Việt Nam là do giun đũa chui vào ống mật; Giáo sư còn phát hiện nếu thiếu thịt, thiếu chất mỡ có thể làm cho dịch dạ dày ít bài tiết ra, làm cho người bệnh sẽ giảm chất a xít trong dạ dày và tá tràng. Từ đó kết luận các nguyên nhân chính của các bệnh do giun đũa, viêm phù tụy hay sỏi đường mật là do sự nghèo khổ của nhân dân lao động.
 |
Giáo sư Tôn Thất Tùng trong phòng phẩu thuật |
Suốt cuộc đời mình Giáo sư luôn say mê nghiên cứu khoa học với mong muốn mau chóng đem lại sức khỏe, sức lao động cho người bệnh và đưa nền y học Việt Nam sánh vai cùng với nền y học trên thế giới. Giáo sư đã được tặng nhiều giải thưởng khoa học quốc tế như Huy chương Bạc của Liên hiệp Pháp (1939), Huy chương Bạc của Trường Đại học Y khoa Pari (1940), Huy chương phẫu thuật quốc tế Lannelông (Viện Hàn lâm phẫu thuật Pari); được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Chiến sĩ thi đua toàn quốc và Giải thưởng Hồ Chí Minh-Giải thưởng cao quý với một người thầy thuốc nhân dân như Giáo sư Tôn Thất Tùng.
Giáo sư Tôn Thất Tùng mất đi trong sự nuối tiếc của quảng đại quần chúng nhân dân, hàng chục ngàn người đã đổ xuống đường để tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng, nhiều người bệnh được ông cứu sống đã lập miếu thờ và đặt ảnh ông trên bàn thờ tổ tiên; tổ quốc ghi nhận công lao của ông bằng nhiều đường phố ở Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế và Đà Nẵng mang tên Tôn Thất Tùng.