WHO phát hành Hướng dẫn chôn cất nạn nhân Ebola an toàn
Ngày 7/11/2014. GENEVA - Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa phát hành hướng dẫn chôn cất nạn nhân Ebola an toàn (W.H.O. Issues New Guidelines on Safely Burying Ebola Victims).Theo hướng dẫn này một quy trình mới về chôn cất các nạn nhân Ebola nhằm nỗ lực làm chậm lại sự lây lan và duy trì các tiến bộ đạt được trong việc hạn chế dịch bệnh Ebola tại Tây Phi.
Pierre Formenty, một trong những chuyên gia Ebola của WHO trả lời các phóng viên tại Geneva rằng các nạn nhân Ebola có nguy cơ lây nhiễm cao nhất khi họ tử vong và các nghi lễ chôn cất truyền thống bắt buộc các thành viên gia đình tiếp xúc với người đã chết là nguyên nhân gây ra khoảng 20% hoặc nhiều hơn nữa các ca lây nhiễm mới tại các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Quy trình này được trình bày dưới hình thức 17 trang hướng dẫn đã được WHO xây dựng và tham khảo ý kiến của các cơ quan y tế và các tổ chức có đức tin Cơ Đốc Giáo. Hướng dẫn này trình bày các cách thức tiến hành chôn cất đảm bảo yêu cầu bắt buộc về tính an toàn và các vấn đề nhạy cảm văn hóa của các tín đồ Hồi Giáo và Cơ Đốc Giáo (Muslims and Christians). WHO báo cáo trong tuần này các quan chức y tế đã huy động khoảng 140 nhóm chôn cất tại Guinea, Liberia và Sierra Leone-những nước bị ảnh hưởng nặng nhất, để có thể tiến hành chôn cất an toàn WHO cũng cho biết cần thêm khoảng một phần ba số nhóm này. Các chuyên gia y tế đang cố gắng xác minh xem liệu phản ứng toàn cầu đối với Ebola rốt cuộc có đang bắt đầu giúp làm giảm tỷ lệ lây nhiễm hay không, ít nhất là ở một vài khu vực. Theo TS. Formenty tại phía Tây Sierra Leone khoảng một nửa số nạn nhân tử vong do Ebola được chôn cất an toàn và tại phía Đông nước này tỷ lệ này là 80%.
 |
| Một nhóm chôn cất di chuyển một nạn nhân Ebola tới một khu vực chôn cất hồi tháng trước tại Hạt Bong, Liberia. Khoảng 140 nhóm chôn cất có thể tiến hành chôn cất an toàn đã được huy động tại Guinea, Liberia và Sierra Leone, những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất do Ebola. |
Theo những số liệu công bố của WHO hôm thứ sáu 7/11/2014 thì hơn 4.900 người đã tử vong do Ebola từ tháng 12/2013, trừ một số ít ở nơi khác ra còn lại tất cả là ở Guinea, Liberia và Sierra Leone nhưng trong tuần trước WHO cho biết số lượng các ca nhiễm mới tại Liberia đã giảm xuống. TS. Formenty nói việc gia tăng số lượng nhóm chôn cất an toàn tại Liberia là một trong những nhân tố mà WHO cho là giúp làm giảm các ca bệnh, cùng với việc có thêm nhiều các nhóm y tế và các trung tâm điều trị. Tại thủ đô Liberia, Monrovia, khoảng thời gian từ khi chết đến lúc chôn cất các nạn nhân giảm từ ba ngày xuống ít hơn 24 giờ vào tháng 8/2014. Hội Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ Quốc tế (International Federation of Red Cross and Red Crescent Societies) là các tổ chức đã đi đầu trong việc quản lý chôn cất an toàn báo cáo họ đã tiến hành gần 2.300 ca hỏa táng và chôn cất tại Liberia nhưng chỉ có 900 ca tại Sierra Leone. Theo WHO trong tuần này tỷ lệ lây nhiễm tại Sierra Leone vẫn “rất đáng lo ngại” (very concerning), TS. Formenty cho biết tại Guinea-nơi các nhóm công tác của Hội Chữ thập đỏ hiện đang xử lý việc chôn cất tất cả các ca Ebola, số ca nhiễm mới dường như đã chậm lại nhưng vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm.
Dữ liệu cho thấy chỉ thực hiện chôn cất an toàn thôi thì sẽ không làm giảm tỷ lệ nhiễm và nhấn mạnh rằng cần phải có thêm nhiều trung tâm y tế, nhiều nhóm y tế và nhiều cuộc nói chuyện giữa các nhà chức trách y tế với các cộng đồng. WHO cho rằng quy trình mới nhấn mạnh việc chôn cất phải đảm bảo an toàn nhưng cũng phải tôn trọng, chú trọng đến vấn đề nhạy cảm tôn giáo và văn hóa để xây dựng niềm tin trong các cộng đồng nơi mà một vài người đã buộc tội rằng các nhóm chôn cất gây ra tình trạng lây lan dịch bệnh, mời gia đình nạn nhân tham gia vào việc đào mộ của người thân và đề nghị các gia đình Hồi Giáo một biện pháp thay thế nghi lễ tắm cho người chết, một nghi lễ có thể dẫn đến phơi nhiễm chết người vi-rút này “sẽ tạo ra một khác biệt đáng kể trong việc kiểm soát lây nhiễm Ebola” (will make a significant difference in curbing Ebola transmission).
Làm thế nào để tránh việc cách ly Ebola
 |
| Aileen Marty |
Lưu ý của ban biên tập (Editor's note): Các quan điểm đưa ra trong bài này (trình bày theo dạng Q & A) là của riêng tác giả Aileen Marty-một bác sĩ y khoa và giảng viên về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Y Herbert Wertheim vừa trở về sau chuyến công tác hỗ trợ phòng chống dịch bệnh Ebola tại Tây Phi đã có hàng chục năm kinh nghiệm về vi-rút sốt xuất huyết và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác.
Ngày 6/11/2014. CNN - Tuần trước, Kaci Hickox, nữ y tá bị cách ly và buộc phải làm các xét nghiệm về Ebola tại bang New Jersey (Hoa Kỳ) khi cô trở về từ Sierra Leone để chữa trị cho các bệnh nhân Ebola, đã đạt được phán quyết của tòa án trong cuộc chiến pháp lý giữa cô với bang Maine về một lệnh cách ly cưỡng ép tại bang này. Một thẩm phán Tòa án quận đã yêu cầu cô Hickox phải hợp tác với “công tác giám sát tích cực trực tiếp” (direct active monitoring), thông báo kế hoạch đi lại cho nhà chức trách y tế công cộng và báo cáo bất kỳ triệu chứng bệnh nào nhưng về mặt khác thì không ngăn cấm việc đi lại của cô nhưng đây có phải là quyết định đúng đắn vào thời điểm này-dựa vào kiến thức y học, khoa học và công tác thực tiễn y tế công cộng hiệu quả nhất? Phản ứng hoang mang của nhiều người Mỹ cũng là những nhân viên y tế và những người khác vừa trở về từ khu vực Tây Phi bị ảnh hưởng Ebola đã làm nảy sinh cuộc đấu trí giữa các nhà chức trách công cộng với các bác sĩ và toàn bộ cộng đồng vì vấn đề cách ly.
Ai đúng? Điều gì là đúng nhất? (Who is right? What is best?)
Cách ly y tế đã có từ lâu giống như “bệnh dịch hạch” (the plague), biện pháp này được áp dụng vào thế kỷ 14 khi các tàu từ các cảng bị mắc bệnh dịch hạch đến thành phố Venice bị buộc phải neo đậu tại chỗ trong vòng 40 ngày (quaranta giorni, theo tiếng italian) trước khi được cập bến. Cách ly nhanh chóng trở thành cơ chế mặc định cho công tác kiểm soát dịch bệnh đối với những căn bệnh không thể chữa trị nhưng những biện pháp này vẫn còn cần thiết, hiệu quả và phù hợp trong thế kỷ 21? Thêm nữa, tại sao Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ lại quyết định cách ly binh lính trở về từ những khu vực Tây Phi bị ảnh hưởng của Ebola trong vòng 21 ngày, trong khi chính phủ các tiểu bang không hề quyết định cưỡng ép cách ly và nhiều bang khác thì tiến hành các thủ tục cách ly khác nhau?
Về mặt pháp lý, chính quyền liên bang có thẩm quyền cách ly. Bộ luật Hoa Kỳ cho phép Ngành y tế công cộng có quyền cách ly, giám sát và các luật tương tự tồn tại ở phần lớn các hiến pháp bang, tuy nhiên những quyền này ít khi được sử dụng, một phần vì các tiến bộ trong y học đã khiến các biện pháp này trở nên không cần thiết. Trong năm 2014, chúng ta phải đánh giá các bộ luật, các phác đồ điều trị và các biện pháp y tế công cộng và điều chỉnh cho phù hợp với thời đại. Chúng ta phải đặt câu hỏi liệu biện pháp cổ xưa này còn có thể áp dụng và còn hợp lý nữa không trong tình huống khẩn cấp y tế công cộng Ebola hiện nay. Có nhiều vấn đề phải cân nhắc, an toàn công cộng là một vấn đề lớn nhưng sau đó sẽ phát sinh những chi phí: chi phí kinh tế để tổ chức công tác cách ly đối với cá nhân và gia đình cá nhân đó và người sử dụng lao động và chi phí cho địa phương, chính phủ tiểu bang và quốc gia; chi phí kinh tế cho việc không thực hiện biện pháp cách ly, nghĩa là chi phí cho công tác chăm sóc y tế nếu có thêm các trường hợp nhiễm Ebola xảy ra. Có một cái giá phải trả đối với tự do cá nhân cũng như các tác động về mặt tình cảm và xã hội khi cách ly các cá nhân và gia đình của họ và dĩ nhiên còn có những tổn thất về mặt tình cảm và xã hội khi không thực hiện cách ly. Chắc chắn rằng sẽ có những hao tổn về mặt chính trị vì áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp cách ly và có những tác động tiêu cực đến tinh thần tự nguyện thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm tại khu vực nóng của dịch bệnh nếu như các tình nguyện viên có thể đoán được là sẽ bị cách ly khi trở về nhà. Ngoài ra, còn có các vấn đề thực tế như bản chất của việc cách ly (tự nguyện với không tự nguyện), số thời gian cách ly, địa điểm cách ly và các giải pháp thay thế đối với cách ly nhưng trên hết thảy những vấn đề này, chúng ta có khoa học và công nghệ và điều này rất quan trọng.
 |
| Hickox: ‘Tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài đấu tranh’ |
Vào thời điểm khi mà chúng ta có các công cụ và kiến thức của thế kỷ 21 có thể giúp giảm thiểu nguy cơ từ Ebola cho thế giới và cho Hoa Kỳ, để gìn giữ tự do công cộng phù hợp nhất có thể và hành động để giảm thiểu không chỉ rủi ro y tế mà còn những thiệt hại kinh tế và xã hội do dịch bệnh này đem đến thì chúng ta không thể đưa ra một giải pháp nào tốt hơn là cách ly hay sao?
Có, chúng ta có thể. Khoa học, kết hợp với những kinh nghiệm thực tế tại Tây Phi cho thấy rằng một người mang vi-rút Ebola trong cơ thể nhưng chưa phát triển bất kỳ triệu chứng nào thì không có đủ vi-rút để truyền cho người khác và không dễ lây nhiễm. Thực tế, vào ngày mà một người phát triển triệu chứng bệnh, xét nghiệm máu phát hiện Ebola bằng kỹ thuật PCR đặc biệt nhạy thường cho kết quả âm tính và xét nghiệm chỉ cho kết quả dương tính đáng tin cậy thường phải hai hoặc thậm chí ba ngày sau khi triệu chứng bắt đầu.
Điều đó nghĩa là một người nào không có triệu chứng thì không cần đưa vào cách ly. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là người có khả năng phơi nhiễm cao với vi-rút Ebola cần phải được giám sát. Chúng ta có thể giám sát một cách an toàn mà không cần cách ly hay không?
Có và đây là nơi cho công nghệ bước vào. Chúng ta có công nghệ giám sát bệnh nhân bằng các thiết bị đeo trên cổ tay họ và chúng có thể gửi lại (theo thời gian thực tế) thông tin về nhịp tim, nhiệt độ và thậm chí mức oxy trong máu họ, những thiết bị này có thể chuyển tiếp thông tin tới một văn phòng y tế công cộng của tiểu bang và gửi cảnh báo tới một nhân viên y tế công cộng đảm trách nếu có bất kỳ thông số bất thường nào, những thiết bị này còn có thể được điều chỉnh để cảnh báo người đang mang thiết bị đó dừng lại và gọi tới văn phòng y tế công cộng. Điều này có thể cho phép việc tự do đi lại và nhanh chóng ngừng mọi chuyển động ngay khi một người đó có biểu hiện triệu chứng (nếu họ từng có). Nếu bạn nghĩ rằng việc sử dụng một thiết bị cảm biến đeo tay này là một lựa chọn đắt đỏ, thì không phải vậy (khoảng 100$/người). Nếu so với biện pháp cách ly 21 ngày, thì ước tính phải chi trả ít nhất 1.000$/ngày/người cho lựa chọn này. Bộ Quốc phòng cũng có thể sử dụng lựa chọn này, nhưng cho tới giờ họ đã lựa chọn biện pháp cách ly. Những lý do rất đơn giản. Quân đội dường như nhìn vào chi phí quản lý một ca bệnh Ebola (tại Hoa Kỳ là khoảng 18.000-24.000$/ngày) và quyết định rằng việc cách ly binh lính của mình (chi phí cho biện pháp này thường thấp hơn rất nhiều so với chi phí cách ly một thường dân) sẽ tốn ít chi phí hơn so với nguy cơ có thêm bệnh nhân Ebola nếu một trong những binh lính của họ có triệu chứng. Quân đội phải chi trả cho dịch vụ chăm sóc y tế của tất cả binh lính của mình và phải tránh các rủi ro không cần thiết. Bộ Quốc phòng không phải giải quyết các vấn đề như ai sẽ trả cho việc cách ly và ai trả cho việc giảm hiệu suất công việc khi có binh lính nào đó bị cách ly, luật quân đội được đưa ra và các vấn đề khác về tự do cá nhân, xã hội, tinh thần tự nguyện và các hao tổn về mặt chính trị không có hiệu lực.
Tuy nhiên, những người trong quân đội giống như công dân chúng ta cũng nên đơn giản áp dụng khoa học và công nghệ hiện nay để giải quyết nguy cơ lây nhiễm Ebola ?.
Vâng, đúng vậy, quyết định của tòa án bang Maine khi xem xét các khía cạnh về khoa học hiện đại, y tế công cộng và nỗi sợ hãi của công chúng, là hợp lý và thích hợp với thời đại của chúng ta. Hãy hy vọng những bang khác sẽ đưa ra các quyết định sáng suốt như vậy.