Trong vòng 10 năm gần đây dịch bệnh từ động vật truyền sang người ngày càng trở nên phổ biến và nguy hiểm, trong đó không ít bệnh dịch tối nguy hiểm có thể phát triển thành đại dịch và gây chết người hàng loạt trên phạm vi toàn cầu như dịch bệnh SARS, cúm A (H5N1), cúm A (H1N1)… Hiểu biết thấu đáo về các loại dịch bệnh này để có biện pháp tự phòng tránh tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả bệnh dịch tác động đến kinh tế, xã hội và sức khỏe cộng đồng.
Tác nhân gây bệnh và hiểm họa dịch bệnh có nguồn gốc từ động vật
Giới thiệu sơ lược về bệnh truyền từ động vật sang người và vấn đề y tế công cộng thú y
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO., 2010) cho biết vấn đề bệnh truyền từ động vật sang người và vấn đề y tế công cộng liên quan đến thú y (Zoonoses and veterinary public health (VPH) rất quan trọng hiện nay. Bất kỳ một bệnh hoặc nhiễm trùng nào lây truyền tự nhiên từ động vật có xương sống sang người và ngược lại đều được phân loại là bệnh “Zoonosis” theo tổ chức PAHO đăng tải trong "Zoonoses and communicable diseases common to man and animals". Khoảng hơn 200 căn bệnh zoonose được mô tả và biết đến trong nhiều thế kỷ qua. Chúng gây ra bởi nhiều loại tác nhân gây bệnh khác nhau: vi khuẩn, virus, nấm và một số tác nhân khác.
Một số ví dụ về bệnh zoonose, phân loại theo loại tác nhân gây bệnh được báo cáo dưới đây:
PVi khuẩn: mỗi năm có hàng triệu người bị bệnh zoonose do lây truyền qua đường thực phẩm như Salmonellosis và Campylobacteriosis, biểu hiện triệu chứng là gây sốt, đau bụng, suy nhược và buồn nôn. Các vi khuẩn khác gây bệnh zoonose là bệnh than, brucellosis, nhiễm trùng bởi các tác nhân sinh độc (verotoxigenic) Escherichia coli, leptospirosis, dịch hạch, sốt Q, Shigellosis và Tularaemia;
PKý sinh trùng: ấu trùng sán dây lợn/ bệnh sán dây gây ra bởi ký sinh trùng đã nhiễm trên lợn và có thể gây ccown động kinh, nhức đầu và các triêu chứng khác ở người. Chẳng hạn, tại châu Mỹ La tinh, 100/100.000 người dân chịu tình trạng bệnh này. Các bệnh zoonose do ký sinh trùng khác là bệnh do trematodosis, echinococcosis/hydatidosis, toxoplasmosis và trichinellosis;
PVirus: dại là một bệnh của các đông vật ăn thịt và dơi chủ yếu lây truyền qua người thông qua vết đốt, cắn. Mặc dù tất cả người nhiễm bởi các động vật bị bệnh dại sẽ chết nếu không điều trị. Ước tính khoảng chừng 55.000 người, nhất là trẻ em, chết vì dại trên thế giới hàng năm. Các con chó chịu trách nhiệm cho hầu hết các ca bệnh ở người. Bệnh zoonose do virus là các virus cúm, sốt xuất huyết Crimean-Congo, Ebola và sốt Rift Valley;
PNấm: nhóm nấm dermatophytose là nhóm nấm nông có thể mắc phải do động vật nhiễm bệnh và ảnh hưởng lên da, tóc và móng của người, gây các thương tổn ngứa, đỏ da, vết dát, rụng tóc. Nhiễm nấm khác có thể gây bệnh zoonotic là nhóm sporotrichose;
PCác tác nhân bất thường: là các tác nhân gây bệnh não xốp (Bovine Spongiform Encephalopathy) được xem là do gây nên các bệnh Creutzfeldt-Jakob Disease (vCJD) có bệnh lý thần kinh thoái hóa phân biệt với bệnh CJD, hiện tại chắc chắn gây chết người.
Bệnh lây truyền qua động vật vẫn còn là mối đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng, nhưng nhiều căn bệnh trong số đó đang bị lãng quên, chẳng hạn các bệnh đó không được ưu tiên trong hệ thống y tế quốc gia và quy mô quốc tế. Các bệnh này đã tác động và làm ảnh hưởng đến hàng trăm ngàn người, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triểncho dù các căn bệnh này đều có thể dự phòng được.
Hiện tượng con người bị mắc những căn bệnh mà thông thường chỉ có các loài động vật mới mắc phải không là chuyện gì lạ lẫm. Điều đáng lo lắng là gần đây, các trường hợp như thế đã gia tăng một cách bất thường. Đến ngay cả loài gia cầm như gà, vịt cũng đang gây nên những hiểm họa to lớn với virus H5N1.
Đa chứng nan y: đã và đang tồn tại vô số những căn bệnh mà động vật có thể làm người lây nhiễm.
-AIDS: Con người bị lây nhiễm virus HIV từ những giống khỉ dạng người cư trú tại Trung Phi, nhiều khả năng nhất là từ Shimpanze. Đã có tới gần 24 triệu người chết vì AIDS.
-Dịch SARS: Phỏng đoán là xuất phát từ chồn hương. Dịch bệnh này đã được phát hiện ở Trung Quốc đầu năm 2003 và làm nhiễm vài nghìn người, trong đó có hơn 800 người bị thiệt mạng (299 người chết là ở Hồng Công).
-Sốt phát ban: Do muỗi gây ra. Những đợt dịch đầu tiên của căn bệnh này xuất hiện trong những năm 50 của thế kỷ trước tại Thái Lan và Philippines. Những năm 70 của thế kỷ trước, 9 quốc gia bị dịch sốt phát ban. Hiện nay, tại 100 quốc gia xuất hiện những trường hợp bị sốt phát ban.
-Sốt Ebola: Phỏng đoán là con người bị mắc bệnh sốt Ebola từ những giống khỉ dạng người. Tác nhân gây bệnh được truyền trực tiếp thông qua máu và các chất thải của bệnh nhân. Trong những năm 70 của thế kỷ trước, tại Sudan đã phát hiện được dịch sốt Ebola, làm tử vong tới 90% số người bị nhiễm dịch.
-Bệnh sốt vàng: Con người bị nhiễm virus gây bệnh sốt vàng từ những con khỉ dạng người cư trú tại Trung Phi, có nhiều khả năng hơn cả là từ Shimpanze. Trung chuyển mầm bệnh là muỗi. Những trường hợp đầu tiên mắc bệnh sốt vàng đã được ghi nhận từ 400 năm trước. Vaccine phòng bệnh sốt vàng đã được sáng chế ra khoảng 60 năm trước.
-Sốt Tây sông Nil: Con người bị nhiễm mầm bệnh này từ chim thông qua muỗi. Đây là một trong những dịch sốt nguy hiểm nhất và gây nên nhiều người chết nhất. Các trường hợp nhiễm căn bệnh này được phát hiện không chỉ ở châu Phi mà ở cả châu Âu, châu Á và Bắc Mỹ.
-Sốt rét: Tác nhân gây bệnh được truyền vào con người sau khi bị muỗi Anopheles đốt. Mỗi năm có khoảng 500 triệu người bị mắc bệnh sốt rét, trong đó có khoảng 1 triệu người chết.
-Bệnh Laima: Con người bị nhiễm virus gây nên căn bệnh này từ hươu và chuột. Triệu chứng nhiễm bệnh giống như bệnh cúm nhưng diễn tiến bệnh lại nặng nề hơn rất nhiều và dẫn tới viêm khớp. Tên bệnh dựa theo tên thành phố Laima ở Mỹ, nơi lần đầu tiên phát hiện ra căn bệnh này.
-Bệnh đậu mùa: Người bị lây căn bệnh này từ lạc đà. Bệnh đậu mùa được biết tới từ ba nghìn năm nay và suốt một thời gian dài bị coi là nguyên nhân chính yếu khiến trẻ con chết. Trong số nạn nhân của bệnh đậu mùa có không ít những nhân vật lịch sử nổi tiếng, thí dụ như vị vua Nga Piotr Đại đế hay vua Pháp Louis XV.
Theo đánh giá của các nhà sử học, vào cuối thế kỷ XIX, mỗi năm có khoảng gần 50 triệu người mắc bệnh đậu mùa. Tỉ lệ người chết vì bệnh đậu mùa chiếm tới 30% tổng số người nhiễm bệnh. Trường hợp nhiễm bệnh đậu mùa gần đây nhất được ghi nhận vào năm 1977.
-Bệnh đậu mùa khỉ: Người bị lây nhiễm căn bệnh này từ chuột vàng. Những trường hợp bị nhiễm bệnh đậu mùa khỉ được phát hiện lần đầu vào cuối tháng 5/2005 ở Mỹ. Căn bệnh này tiến triển như bệnh đậu mùa thông thường cho tới khi gây nên chết người.
-Dịch hạch: Con người bị nhiễm bệnh dịch hạch từ chuột và một số loại thú gặm nhấm khác. Tác nhân gây bệnh được truyền qua vết cắn. Đợt dịch hạch lớn đầu tiên được ghi nhận xảy ra vào thế kỷ thứ VI tại Vizantia: trong 50 năm đã có gần 100 triệu người chết vì dịch hạch. Thế kỷ XIV, dịch hạch đã làm chết một phần ba dân số châu Á và một nửa dân số châu Âu.
Đến thế kỷ XIX lại xảy ra đợt dịch hạch toàn cầu lớn thứ ba - cư dân của 100 hải cảng trên thế giới đã bị mắc căn bệnh này. Năm 1999, dịch hạch lại bùng phát ở 14 quốc gia, chủ yếu là tại châu Phi. Gần 2,6 triệu người bị mắc dịch hạch và 212 người trong số đó đã chết.
-Bệnh bò điên: Con người bị lây nhiễm căn bệnh này từ thịt bò. Trên thế giới đã có một số trường hợp chết của những người ăn thịt bò bị nhiễm tác nhân gây bệnh, làm hỏng não. Thỉnh thoảng lại có những người chết vì bệnh bò điên ở các nước khác nhau. Thiệt hại do căn bệnh này gây ra cho nền kinh tế châu Âu ước tính từ 60 tới 120 triệu USD.
-Bệnh viêm não: Tác nhân gây bệnh viêm não được truyền cho người từ chuột và những loài gặm nhấm khác. Những loài trung chuyển tác nhân gây bệnh này là muỗi và ve. Mỗi năm trên thế giới có khoảng từ 100 tới 200 nghìn người mắc bệnh viêm não, trong số đó có khoảng 10-15 nghìn bệnh nhân chết...
Càng ngày càng nguy hiểm
Các chuyên viên của Viện Quốc gia các bệnh dị ứng và lây nhiễm ở Mỹ cho rằng, mọi sự mới chỉ đang bắt đầu trong cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm đó. Trong tương lai gần sẽ còn xuất hiện trên người nhiều căn bệnh lây nhiễm từ động vật và thiệt hại về nhân mạng cũng như vật chất sẽ gia tăng. Do sự phát triển của tiến trình toàn cầu hóa cũng như việc môi sinh bị hủy hoại, sự tiếp xúc gần gụi giữa con người với động vật đã trở nên thường xuyên hơn trước nhiều lần. Thậm chí, nhiều loại động vật trước đây chẳng bao giờ sống cùng con người cũng đã bị thuần hóa thành gia súc. Nhiều loại thú kỳ dị từ châu Á hay châu Phi đã trở thành thức ăn cho cả các cư dân châu Âu hay Hoa Kỳ... Cơ cấu ngành công nghiệp thực phẩm hiện đại dẫn tới nguy cơ những bệnh dịch của động vật có thể đe dọa mạng sống và sức khỏe của nhiều trăm nghìn người. Những thay đổi khí hậu cũng làm thay đổi hành trình di trú của các loài chim và sâu bọ, côn trùng (thí dụ như muỗi chẳng hạn), giúp chúng mang các mầm bệnh đi phát tán rộng rãi hơn trước nhiều lần. Sự thay đổi môi sinh của con người và động vật cũng làm thay đổi cách tác động của những mầm bệnh khác nhau...
Theo Laurie Garrett, tác giả cuốn sách "Dịch hạch tương lai", nhận xét rằng chúng ta cho tới nay vẫn chưa hình dung được hết quy mô của vấn đề này. Trước khi tác nhân gây nên những bệnh thường có ở động vật chưa xuất hiện trên người thì không ai có thể tiên liệu được chuyện này. Cũng không ai rõ tại sao virus gây bệnh ở động vật lại có thể biến thái và trở thành nguy hiểm đối với con người. Việc nhiễm bệnh cũng có thể xảy ra thông qua một động vật trung gian. Đó có thể là con muỗi (muỗi gây nên bệnh sốt rét sau khi đốt người), nhưng cũng có thể là con vật mà người dùng làm thức ăn... Cũng chưa ai rõ động vật có thể lây nhiễm những căn bệnh gì từ con người. Cho tới nay, hầu như chưa quốc gia nào có được một chương trình nghiên cứu đặc biệt chuyên sâu về các căn bệnh của động vật có thể nhiễm vào con người.
Thanh gươm Damocles
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), virus H5N1 thường ít khi lây nhiễm ra các sinh vật khác, trong đó có con người. Tuy nhiên, đây là loài virus có thể biến thái để gây nên bệnh cúm gia cầm ở người. Trên thế giới đã có trên dưới 70 trường hợp người bị chết vì bệnh cúm gia cầm ở châu Á trong hai năm gần đây. WHO cũng cho rằng, không một quốc gia nào có thể được an toàn một khi đại dịch cúm gia cầm xảy ra. Ngay cả việc "bế quan tỏa cảng" cũng không thể nào giúp ngăn chặn đại dịch. Nếu trước đây, các đại dịch phải cần tới 6-9 tháng mới đạt được quy mô toàn cầu thì hiện nay, do sự phát triển của các phương tiện đại chúng công cộng, chỉ cần không hơn 3 tháng là đại dịch đã lan ra khắp thế giới...Có thể nói không quá rằng, hiện nay bệnh cúm gia cầm và virus H5N1 đang như thanh gươm Damocles lơ lửng treo trên đầu nhân loại và mọi quốc gia đều phải cảnh giác với đại dịch này.
Thực tế cho thấy, nếu xảy ra đại dịch cúm gia cầm trên người thì hầu như tất cả mọi nước đều sẽ vấp phải những khó khăn to lớn. Các nhà khoa học cho rằng, tốc độ lan truyền của cúm gia cầm ở người nhanh gấp 38 lần so với dịch SARS. Theo WHO, tất cả các quốc gia đều đang thiếu vaccine và thuốc chống cúm gia cầm. Chưa thể hình dung được hết số lượng nạn nhân có thể chết vì đại dịch này, chỉ biết rằng con số có thể lên tới nhiều chục triệu người... WHO dự đoán, có thể có từ 2 tới 7 triệu người chết khi đại dịch bùng nổ. Còn theo dự đoán của một số nhà bác học, con số này có thể lên tới từ 20 tới 100 triệu người
Cảnh báo nguy cơ lây truyền bệnh dịch nguy hiểm mới nổi từ động vật hoang dã vào vật nuôi và người
Hiệp hội Bảo tồn động vật hoang dã tại Việt Nam đã phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức hội thảo “Các bệnh truyền nhiễm mới nổi và động vật hoang dã tại Việt Nam-Hiện trạng và tầm nhìn” với sự tham gia của các chuyên gia trong nước và quốc tế về lĩnh vực này. Đây là lần đầu tiên cơ quan quản lý Nhà nước của Việt Nam và các tổ chức quốc tế gặp mặt cùng thảo luận về vấn đề môi trường, thú ý và sức khoẻ con người, đồng thời làm rõ trách nhiệm, vai trò của các bên trong việc giám sát sức khỏe động vật hoang dã. Bên cạnh đó, các bên cùng trao đổi góp phần nâng cao năng lực cho các địa phương là “điểm nóng” để nhận biết sự xuất hiện của các căn bệnh truyền nhiễm mới từ các loài động vật hoang dã nguy cơ cao như dơi, các loài gặm nhấm, các loài linh trưởng không phải vượn người có thể đe dọa đến sức khỏe con người.
Tại Hội thảo các chuyên gia quốc tế cảnh báo: Các nguy cơ về bệnh truyền nhiễm vẫn rình rập, nhiều hành vi có nguy cơ cao như dùng động vật hoang dã làm thức ăn, thuốc cổ truyền và nhân nuôi để tiêu thụ khiến bệnh dịch lây truyền giữa người, động vật hoang dã và vật nuôi. Theo các nghiên cứu gần đây, khoảng 75% bệnh dịch truyền nhiễm ở người có nguồn gốc từ động vật, Đông Nam Á được coi là một “điểm nóng” về nguy cơ bùng phát các bệnh dịch mới nổi.
Cúm gia cầm độc lực cao (cúm gà) và bệnh cúm mới tràn qua toàn cầu là những ví dụ về các bệnh dịch nguy hiểm trên động vật có khả năng gây hại cho sức khoẻ con người. Năm 2002, đợt bùng phát bệnh SARS, bệnh dịch này chưa từng được biết đến trước đó, xuất hiện từ khu chợ ở Trung Quốc khi các nhà hàng và người làm tại chợ giết thịt chó để ăn thịt. Trong các trường hợp trên, Việt Nam là một nước đi đầu trong việc đối phó, thực hiện các biện pháp hiệu quả về thú ý và sức khoẻ cộng đồng.
Theo ông Francis Donovan, Giám đốc Cơ quan Phát triển Hoa Kỳ (USAID) tại Việt Nam nhận định: Trên toàn cầu người ta ngày càng nhận thức rõ hơn về sự kết nối giữa sức khỏe con người, thú ý và sức khoẻ môi trường. Việt Nam đã chứng tỏ mình là người đi đầu bằng việc dùng phương pháp tiếp cận “One Health – Một sức khỏe” trong việc phát triển chính sách về chuẩn bị cho các bệnh dịch của đất nước. Bởi hiện nay, tốc độ xuất hiện và lan truyền của những bệnh dịch này là mối quan ngại nghiêm trọng đối với sức khoẻ cộng đồng, sự phát triển của nền kinh tế. Do đó cần nâng cao năng lực phát hiện, đối phó với bệnh dịch một cách toàn diện, nhất là ở các khu vực có nguy cơ bệnh dịch dễ bùng phát. Điều này là rất tốt vì giúp cộng đồng tăng cường hiểu biết về bệnh dịch trên động vật hoang dã và vai trò, ảnh hưởng của chúng đối với sức khoẻ cộng đồng.
Cũng trong Hội thảo về các bệnh truyền nhiễm mới nổi tại Việt Nam, lần đầu tiên các bên về sức khỏe con người, thú ý và môi trường cùng thảo luận về giám sát sức khỏe động vật hoang dã trong hội thảo “Các bệnh truyền nhiễm mới nổi và động vật hoang dã tại Việt Nam - Hiện trạng và tầm nhìn”cho thấy 3/4 bệnh dịch ở người bắt nguồn từ động vật. Tại hội thảo, ông Nguyễn Công Dân, Phó Cục trưởng Cục Thú y cho biết, 75% bệnh mới nổi ở, bùng phát hoặc tái phát tác động đến con người ở đầu thế kỷ 21 có nguồn gốc từ động vật. Theo các nghiên cứu gần đây, Đông Nam Á được coi là một “điểm nóng” về nguy cơ bùng phát các bệnh dịch mới nổi.
Theo PGS, TS Nguyễn Thị Thu Yến, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, hiện có đến 28 bệnh truyền nhiễm cần báo cáo tại Việt Nam. Đáng chú ý là dịch bệnh điển hình trong thời gian vừa qua như cúm gia cầm (cúm A/ H5N1 ở trên gia cầm và người) và dịch SARS. Đến nay, bệnh cúm cúm A/ H5N ở Việt Nam ghi nhận tổng số 119 ca mắc, 59 ca tử vong tại 40 tỉnh, thành (ca gần nhất tháng 4-2010). Hầu hết ca nhiễm đều có tiền sử phơi nhiễm với gia cầm ốm, chết. Theo bà Thu Yến, virus bệnh viêm não Nhật Bản được truyền bởi tác nhân là muỗi. Lợn và chim chính là ổ chứa và là nguồn bệnh. Bệnh dại (cụ thể là bệnh viêm não tủy cấp do virus dại) cũng là một trong những bệnh truyền nhiễm từ động vật sang phổ biến ở Việt Nam. Cụ thể, có đến 96,4% tác nhân truyền bệnh dại là chó, số còn lại là mèo. Nước miếng mang virus của các súc vật bị dại lây sang vật chủ qua vết cắn hoặc vết cào. Năm 1995, có đến 410 ca mắc bệnh dại. Năm 2003 số ca bệnh dại được hạn chế xuống còn 34 ca, nhưng sau đó tăng dần lên 131 ca vào 2007, 68 ca vào 2009 và 63 ca vào năm ngoái. Ngoài ra, còn các bệnh truyền nhiễm khác như dịch hạch, bệnh than, liên cầu lợn ở người…
Bệnh của động vật, nhưng phát hiện ở người
Theo PGS, TS Thu Yến, một trong những thách thức trong phòng chống bệnh truyền nhiễm từ động vật sang người ở Việt Nam là do thiếu kinh phí, chưa nhận thức đầy đủ về các bệnh truyền từ động vật sang người, phát hiện bệnh ở động vật muộn hoặc không phát hiện được. Khi có bệnh ở người thì mới biết có bệnh ở động vật, chưa có cơ chế phối hợp trao đổi thông tin giám sát bệnh truyền nhiễm giữa thú y và y tế. Việc phát hiện bệnh ở động vật muộn hoặc không phát hiện được đã khiến bệnh trở thành dịch và khó kiểm soát hơn.
Hiện tại, danh sách 28 bệnh lây nhiễm từ động vật sang người đang bắt buộc phải theo dõi ở Việt Nam có báo cáo định kỳ hàng tuần, hàng tháng từ cấp cơ sở. Tuy nhiên, TS Yến cho rằng với quy trình quản lý vật nuôi, kiểm dịch động vật, giết mổ và tiêu thụ thịt động vật vẫn còn lỏng lẻo như hiện nay sẽ khiến cho nguy cơ lây nhiễm bệnh vẫn lớn. Bởi vậy, cần tăng cường truyền thông để người dân ý thức được về sự lây nhiễm và tự bảo vệ mình trước. Năm 2002, đợt bùng phát bệnh SARS, bệnh dịch này chưa từng được biết đến trước đó, xuất hiện từ khu chợ ở Trung Quốc khi các nhà hàng và người làm tại chợ giết thịt chó để ăn thịt. Trong các trường hợp trên, Việt Nam là nước đi đầu trong việc đối phó, thực hiện các biện pháp hiệu quả về thú y và sức khỏe cộng đồng.
Theo Francis Donovan, Giám đốc USAID Việt Nam, tốc độ xuất hiện và lan truyền của những bệnh dịch này là mối quan ngại nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng, nền kinh tế và sự phát triển. Phát triển năng lực phát hiện và đối phó với bệnh dịch một cách toàn diện, đặc biệt ở các khu vực nơi nguy cơ bệnh dịch dễ bùng phát là một đầu tư tốt vì điều này giúp tăng hiểu biết của chúng ta về bệnh dịch trên động vật hoang dã và về vai trò quan trọng của chúng đối với sức khỏe cộng đồng.
Trên toàn cầu người ta ngày càng nhận thức rõ hơn về sự kết nối giữa sức khỏe con người, thú y và sức khỏe môi trường. Việt Nam đã chứng tỏ mình là người đi đầu bằng việc dùng phương pháp tiếp cận “One Health – Một sức khỏe” trong việc phát triển chính sách về chuẩn bị cho các bệnh dịch của đất nước. Hội thảo này nằm trong hợp phần Dự báo của Chương trình phát hiện, phòng ngừa mối đe dọa từ các bệnh mới xuất hiện (EPT) kéo dài bốn năm của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Chương trình EPT bao gồm 4 dự án có tên Dự báo, Đối phó, Nhận diện và Ngăn chặn. Qua dự án Predict, USAID và đối tác giám sát và tăng cường năng lực địa phương tại các “điểm nóng” để nhận biết sự xuất hiện của các căn bệnh truyền nhiễm mới từ các loài động vật hoang dã nguy cơ cao như dơi, loài gặm nhấm và các loài linh trưởng không phải vượn người có thể đe dọa đến sức khỏe của con người. Cùng với khu vực hạ lưu Congo ở Đông và Trung Phi, khu vực Mê Công tại Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam được xem là “điểm nóng” được chú trọng trong dự án này.
Các yếu tố nguy cơ và nguồn nhiễm bệnh nguy hiểm
Nguy cơ lây nhiễm bệnh từ vật nuôi và thú cưng
Thế giới càng đô thị hóa và hiện đại hóa, đời sống công nghiệp dần dần tiến bộ và đổi mới, lối sống cũng thay đổi ít nhiều, song vấn đề song song tồn tại nền nông nghiệp chăn nuôi gia súc vẫn không thể nào thay thế được, mặt khác các vật cưng, thú cưng từ nước ngoài mang về hoặc nhập khẩu về Việt Nam cũng như di chuyển từ nước này sang nước khác cũng là vấn đề “luân chuyển mầm bệnh” và gây phát tán bệnh lan rộng đáng chú ý về mặt dịch tễ học.
Chăn thả trâu, bò, dê, cừu là một ngành công nghiệp chăn nuôi đã mang lại khối lợi nhuận lớn cho các quốc gia kể cả nước phát triển và đang phát triển, song các mầm bệnh về ký sinh trùng, vi khuẩn,…chẳng hạn như sán lá gan lớn, sán lá khổng lồ ở dê, ngựa…đã làm thiệt hại không nhỏ đến ngành công nghiệp này một thời gian. Bệnh sán lá gan lớn không những gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của đàn gia súc mà còn làm giảm đi năng suất làm việc của các con vật khi đưa chúng vào giúp nông dân trong các mùa khai hoang trồng trọt. Bên cạnh đó, chúng còn làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con người như trong thời gian qua, số liệu thống kê trên cả nước chưa đầy đủ có đến gần 20.000 trường hợp mắc sán lá gan lớn ở người, nhiều trường hợp có biến chứng nặng như tràn dịch đa màng, tụ máu, abces đa ổ đa cơ quan,…có thể đe dọa tính mạng của bệnh nhân.
Những con vật nuôi trong nhà được nhiều người coi chúng như những người bạn thân thiết (pets) có thể mang lại niềm vui cho mọi người trong nhà, hoặc thậm chí xem chúng như là một thành viên chính trong gia đình họ (nhất là ở Nhật Bản), đặc biệt là trẻ em rất ưa thích chúng và có thể hôn hít và liếm môi, mũi và mõm của chúng như người với người, cách tiếp xúc và nguy cơ do phơi nhiễm như vậy dễ dàng tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh nhiễm từ động vật sang người và cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe doạ tới sức khoẻ của các thành viên trong gia đình từ các trẻ em đó. Trong thời gian qua, từ 2006-2010 và 3 tháng năm 2011, Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn tiếp nhận khám và điều trị hàng nghìn ca nhiễm ấu trùng giun đũa chó, ấu trùng giun đũa mèo và trong số đó nhiều ca bệnh là trẻ em nhỏ tuổi và nhiều người lớn có gia đình nuôi chó, mèo hoặc có phơi nhiễm với chó, mèo (thu mua chó, mèo bán lại các quán nhậu, lò mổ và quán thịt cầy,…)
Theo các chuyên gia thuộc trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh dịch của Mỹ (US.CDC), cùng với các cảnh báo từ các Tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng của nước này cho biết việc tiếp xúc gần gũi và thường xuyên với các loài vật nuôi có thể khiến cho nguy cơ mắc các bệnh do nhiễm khuẩn tụ cầu, vi khuẩn tả, virus viêm màng não ngày một gia tăng đã được báo cáo.
Mọi người có thể nhiễm nhiều bệnh từ động vật, như cúm gà. Nhưng nhiều người cũng có thể khiến những con vật nuôi yêu dấu bị lây những con ‘bọ” nguy hiểm từ chính cơ thể mình. Tại một bệnh viện thú y ở Philadelphia-Mỹ, các nhà khoa học cho biết trong hơn 3 năm qua, 38 con chó, mèo và vật nuôi khác đã nhiễm một loại khuẩn tụ cầu kháng thuốc. Họ cho rằng 6 con vật đã nhiễm khuẩn từ các nhân viên bệnh viện. Nhưng ít nhất một vài trường hợp khác bị lây nhiễm từ chính người chủ vật nuôi. Shelley Rankin, người đứng đầu khoa vi trùng học tại Trường Thú y ở Penn, nói: "Không hẳn là bạn về nhà vỗ con chó mấy cái vào đầu và nó nhiễm bệnh. Nhưng với khoảng 1% số người mang vi khuẩn đó trong mũi, thì nó hoàn toàn có thể bị lây nhiễm qua giao tiếp gần gũi"."Bạn bế chúng lên, thơm vào mõm. Rồi để chúng liếm mặt, và chúng sẽ liếm phải vi khuẩn trên da bạn". Các con vật bị nhiễm vi khuẩn kháng thuốc Methicilline, một dạng nhiễm trùng rất khó điều trị, dù tất cả về sau đều khỏi. Chúng bao gồm 26 con chó, 8 con mèo 3 con vẹt và 1 con thỏ. Các con chó bị phát bệnh ở da và tai. Mèo bị viêm đường tiết niệu, vẹt bị sưng tấy ở da và thỏ thì ở tai. Ở người, vi trùng gây ra những vùng lở loét nghiêm trọng ở da và một số triệu chứng khác.Các nhà nghiên cứu chưa biết loại vi khuẩn này có lây từ vật sang vật hay không. Hơn một thập kỷ qua, các tạp chí y khoa cũng có những báo cáo về sự lây nhiễm từ người sang vật."Việc tìm hiểu sự lây nhiễm từ người chủ sang vật nuôi thực sự là một vấn đề mới và cần phải nghiên cứu thêm.
“Teen” nên cẩn thận khi ngủ cùng thú cưng
Không thể phủ nhận vật cưng mang lại cho bạn nhiều niềm vui và hạnh phúc nhưng nếu bạn có thói quen cho chúng ngủ cùng thì bạn cần phải xem lại!
Ngủ với vật nuôi - Nguy cơ lây bệnh truyền nhiễm trầm trọng
Nếu con vật cưng của bạn có bọ chét và nó luôn được ngủ cùng giường với bạn hoặc cùng phòng thì chắc chắn bạn sẽ có nguy cơ bị bọ chét ghé thăm trên cơ thể đấy.
Tuy nhiên, bọ chét không phải là loại duy nhất mà bạn lo lắng khi ngủ cùng vật nuôi. Một tạp chí y tế công cộng được xuất bản bởi Trung tâm kiểm soát dịch bệnh mới đây đã cảnh báo: khi một con vật cưng ngủ với bạn, thì chủ nhân sẽ phải đối mặt với nguy cơ rất lớn là phải chịu tất cả các loại mầm bệnh từ bệnh động vật truyền sang người (do các động vật ký sinh gây nên). Theo đó, những tác nhân gây bệnh có thể từ con vật cưng truyền sang bạn và làm bạn bị bệnh trầm trọng.
Những đối tượng không nên gần gũi với vật cưng?
Nếu như bạn có một hệ miễn dịch tồi hoặc đang bị bệnh tật nào đó bạn không nên ngủ cùng với vật nuôi vì chúng có thể dễ dàng lây bệnh cho bạn lúc giao mùa. Điều này là do sức đề kháng cơ thể của bạn đã giảm sẽ dễ bị nhiễm trùng bởi vi khuẩn hoặc vi trùng có trên vật cưng. Hơn nữa, để vật nuôi trong giường ngủ cũng được xem là nguy hiểm cho những người cao tuổi, em bé sơ sinh và những em bé trong nhà bạn vì những đối tượng này không nên quá thường xuyên gần gũi vật nuôi. Ngoài ra, nếu bạn đang có bất cứ vết thương hoặc vết mổ phẫu thuật nào trên người, bạn nên để vật nuôi ngủ ở nơi khác. Bởi vì bất kỳ loại vết thương nào, ngay cả một vết khâu cũng sẽ dễ dàng bị nhiễm trùng do chuyển giao với các tác nhân gây bệnh từ vật nuôi trong nhà. Thực tế, đã có nhiều trường hợp chủ sở hữu vật nuôi bị bệnh viêm màng não do ngủ cùng với vật nuôi khi họ đang có một vết thương hở ngoài da.
Làm thế nào để an toàn hơn khi ngủ cùng vật nuôi?
-Nếu bạn giữ cho vật nuôi của bạn sạch sẽ, không bị bọ chét. Hoặc nếu bạn cho vật cưng ghé thăm bác sĩ thường xuyên, bạn có thể sẽ không bị các tác nhân gây bệnh từ vật nuôi khỏe mạnh của bạn ghé thăm;
-Bạn phải chắc chắn rằng vật cưng của bạn nhận được tất cả sự chăm sóc sức khỏe cần thiết như tiêm chủng ít nhất một năm một lần, hoặc tiêm chủng thường xuyên như khuyến cáo của bác sĩ thú y;
-Bạn nên hiểu rằng ngủ với vật cưng không phải là cách duy nhất khiến bạn phải gánh chịu nhiều bệnh tật cho sức khỏe. Mà ngược lại, sống với vật cưng bẩn, hoặc hôn một con vật nuôi… cũng sẽ khiến bạn phải đối mặt với nhiều rủi ro sức khỏe;
-Các chủ nhân phải quan tâm đến vệ sinh răng miệng của vật nuôi của mình thường xuyên bằng cách đánh răng và làm sạch miệng của vật cưng hàng ngày.Khi ấy, vật nuôi sẽ khá an toàn để bạn hôn chúng;
-Không để vật nuôi trong nhà bếp, ăn thức ăn thừa từ các thùng rác. Làm sạch bát thức ăn của vật cưng thường xuyên…
Ngủ chung với vật nuôi làm gia tăng mắc bệnh cho trẻ em nhỏ
Theo chuyên gia Karen Curtis, các con vật cưng cũng đồng thời là vật chủ chính mang trên mình rất nhiều mầm gây bệnh cho con người. Karen Curtis cũng khuyến cáo trẻ em không nên dùng chung chăn, gối hay giường ngủ của mình cho những con vật nuôi mà chúng xem là vật cưng hàng ngày của chúng. Thay vào đó, nếu bạn thực sự yêu quý chúng, hãy dành riêng cho những con thú cưng này một góc riêng, tránh xa giường đệm và các đồ đạc của mình.
Nghiên cứu cho thấy lớp lông dày trên cơ thể của các loài vật nuôi như chó, mèo, thỏ… là nơi trú ẩn lý tưởng của các loài bọ / vi trùnglây truyền các loại vi khuẩn sinh bệnh cho người. Chỉ một khâutiếp xúc / phơi nhiễm thông thường như vuốt ve bằng tay, ôm vào lòng cũng có thể khiến cho những con bọ/ vi trùng mang mầm bệnh truyền bệnh sang cho bạn và các thành viên trong gia đình.
Ngoài ra, như chúng ta đã biết các loài động vật không thể được chăm sóc và giữ sạch sẽ như con người cho dù chúng có được tắm rửa thường xuyên và cẩn thận. Những chất thải do các vật nuôi tiết ra đôi khi bám lại trên lông và da của chúng à có thể là mối đe doạ mang lại bệnh tật cho bạn. Nghiên cứu cho thấy phẩy khuẩn tả tồn tại với số lượng khá lớn trên cơ thể vật nuôi trong nhà và chúng có thể gây ra các bệnh lý về đường tiêu hoá, sốt, tiêu chảy… cho trẻ nhỏ.
Từ bỏ thói quen ôm hôn vật nuôi
Những con vật đáng yêu luôn tạo cảm xúc cho những người yêu động vật, nhất là các vật cưng. Tuy nhiên, chúng không “ngọt ngào” như người ta cảm nhận. Các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ thuộc Trung tâm kiểm soát bệnh dịch CDC của Mỹ đã đưa ra khuyến cáo trẻ em không nên ôm hôn các con thú cưng, bởi các tiếp xúc trực tiếp từ tuyến nước bọt có thể gây ra nhiều vấn đề cho sức khoẻ của trẻ nhỏ. Trong nước bọt của các con thú này có chứa rất nhiều vi khuẩn và khiến cho nguy cơ lây truyền bệnh trở nên nhanh chóng và nghiêm trọng hơn rất nhiều.
Tại Mỹ nhiều trẻ nhỏ đã phải nhập viện trong tình trạng sốt, hôn mê do nhiễm bệnh lây truyền từ vật nuôi trong nhà hoặc do dị ứng với lông động vật. Sau khi khám và kiểm tra, các bác sĩ phát hiện thấy trong khí quản của bệnh nhân có rất nhiều các sợi lông mèo. Chúng chính là nguyên nhân gây ra tình trạng khó thở, dị ứng cho các bệnh nhi này.
Sau đây chúng ta cùng tham khảo một số bệnh lây nhiễm từ 2 loại thú nuôi phổ biến nhất là chó và mèo.
-Nhiễm Campylobacter: thường gây triệu chứng đau bụng, tiêu chảy và sốt. Vi khuẩn này thường trú ngụ trong đường ruột của chó, mèo, chim. Khi nhiễm thường rất dễ lây lan cho những người trong gia đình và lây nhiễm cho những trẻ cùng học chung ở nhà trẻ, mẫu giáo. Điều trị bệnh bằng cách dùng kháng sinh theo chỉ định của bác sĩ.
-Bệnh mèo quào: xảy ra khi đứa trẻ bị mèo nhiễm khuẩn Bartonella henselae quào hoặc cắn vào cơ thể. Triệu chứng bao gồm sưng và đau hạch, sốt, nhức đầu, mệt mỏi. Bệnh thường khỏi mà không cần điều trị, trừ một số trường hợp nặng phải dùng kháng sinh mới khỏi bệnh.
-Bệnh dại: đây là một bệnh rất nguy hiểm. Khi trẻ bị chó hoặc mèo nhiễm bệnh cắn phải, vi rút dại có trong nước bọt của chúng sẽ xâm nhập vào cơ thể trẻ qua vết cắn. Trẻ bị nhiễm vi rút dại có nguy cơ tử vong cao nếu không can thiệp kịp thời. Khi bị chó hoặc mèo nghi ngờ nhiễm dại cắn, nên đưa trẻ đi tiêm ngừa và theo dõi vật nuôi ít nhất 10 ngày sau khi bị cắn.
-Bệnh nấm biểu bì: Trẻ có thể bị nhiễm nấm khi chơi chung với chó, mèo. Bệnh biểu hiện bởi những mảng da đỏ, có bờ gồ ghề và sáng ở trung tâm, vùng da xung quanh khô và đóng vẩy. Bệnh điều trị bằng các loại thuốc kháng nấm dạng dầu gội, gel hoặc thuốc uống.
-Bệnh nhiễm giun đũa chó mèo: giun trú ngụ trong đường ruột của chó /mèo và theo phân ra ngoài gây nhiễm cho người. Bệnh biểu hiện bằng dấu hiệu sốt, ho, hắt hơi, gan to, nổi ban, sưng hạch. Ấu trùng giun có thể theo máu đến khắp nơi trong cơ thể như gây u hạt ở da, u hạt ở mắt, u trên não…Điều trị bệnh cần theo dõi dài ngày và uống thuốc đầy đủ
Giáo sư Bruno Chomel, thuộc trường đại học California - Davis đã mất nhiều năm nghiên cứu về các điều kiện truyền bệnh từ động vật sang người. Ông cho rằng các con vật nuôi cần tránh xa các nơi ăn, ngủ của con người. Ông cũng cho biết không chỉ trẻ nhỏ, mà bản thân người lớn cũng tránh ôm hôn, tiếp xúc trực tiếp với các vật nuôi. Tại Anh, một cụ già 60 tuổi sau khi ôm hôn các con chó cưng của mình đã bị nhiễm virus gây bệnh viêm màng não nghiêm trọng và rơi vào tình trạng hôn mê. Như vậy, nguy cơ lây nhiễm bệnh không chỉ tập trung vào trẻ nhỏ, mà tập trung hầu hết vào những người có hệ miễn dịch yếu như: người già, trẻ nhỏ, bệnh nhân sau phẫu thuật cấy ghép, bệnh nhân tiểu đường và các bệnh nhân bị mắc chứng suy giảm hệ miễn dịch khác…
Cơ chế lây nhiễm chủ yếu của các bệnh này là do những chất tiết ra như nước tiểu, máu, nước bọt và đặc biệt là lông của chó, mèo… khi những thứ này bám vào thức ăn của người, hoặc do người bệnh tiếp xúc thân thiết với chó mèo bằng các hành động như ve vuốt, ôm ấp, ngủ chung với chúng. Một số trường hợp khác là do bị thú nuôi cắn trực tiếp.
Nhiều trường hợp bệnh, người bệnh bị các chứng dị ứng hoặc truyền nhiễm sẽ tự động khỏi mà không cần sự can thiệp của bác sĩ, nếu mức độ nhiễm bệnh nhẹ. Tuy nhiên, theo cảnh báo của các chuyên gia y tế, một số trường hợp nếu không được chữa trị kịp thời có thể dẫn đến mù mắt hay đột quỵ như do sán đầu gai hay giun đũa chó gây nên, nặng hơn nữa có thể dẫn đến tử vong.
Theo kết quả một cuộc điều tra xã hội của trung tâm kiểm soát và ngăn chặn bệnh dịch Mỹ - CDC, khoảng 60% bệnh ở con người có thể lây nhiễm qua các loài vật nuôi. Giáo sư Chomel cho biết: Trong số 250 bệnh lây từ động vật sang người đã được các nhà khoa học phát hiện, thì có tới hơn 100 bệnh đã được xác nhận là do vật nuôi trong nhà gây ra. Trong đó tập trung vào các bệnh như: nhiễm giun sán, tả, mẩn ngứa, sốt, uốn ván và các hiện tượng nhiễm trùng, nhiễm virus gây bệnh khác.
Cách phòng tránh lây nhiễm bệnh từ vật nuôi:
[1] Luôn rửa sạch tay, đặc biệt là sau khi chơi với vật nuôi, cầm nắm thức ăn của chúng hoặc sau khi cọ rửa chuồng thú nuôi. Khi cọ rửa hoặc dọn chất thải vật nuôi, nên mang găng;
[2] Hạn chế hôn hít vật nuôi cũng như ăn cùng chúng;
[3] Không cho vật nuôi chơi ở gần khu vực chế biến thức ăn;
[4] Không nhận nuôi những vật nuôi hoang dã, không rõ nguồn gốc;
[5] Nên tiêm ngừa đầy đủ cho vật nuôi trong nhà.
Vật nuôi khoẻ mạnh vẫn có thể mang mầm bệnh
Mọi người thường chủ quan rằng vật nuôi của mình đã được tiêm phòng và được chăm sóc cẩn thận. Mặc dù việc chăm sóc để có vật nuôi khoẻ mạnh là rất cần thiết và giúp làm giảm nguy cơ phát sinh bệnh cho vật nuôi cũng như cho người nuôi. Tuy nhiên, người ta quên rằng những con vật khoẻ mạnh vẫn có thể mang trên mình nó mầm gây bệnh hoặc có thể thói quen sinh hoạt của chúng sẽ gây ảnh hưởng cho người nuôi. Các chuyên gia cho rằng cách tốt nhất là tránh để vật nuôi tiếp xúc với những nơi sinh hoạt thường xuyên của con người trong nhà, chẳng hạn như: bếp ăn, phòng ngủ… đồng thời cách ly vật nuôi bị bệnh ra khỏi nơi sinh sống của gia đình mình. Những con vật nuôi khoẻ mạnh sẽ giúp giữ sức khoẻ cho tất cả mọi người thân trong gia đình.
Hiện này, nhiều gia đình có nuôi vật nuôi trong nhà như chó, mèo, chim, chuột. Không chỉ là những con thú cưng trong nhà, vật nuôi còn trở thành những người bạn thân thiết của trẻ. Cho trẻ chơi với vật nuôi cũng có nhiều mặt tích cực nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng phải biết cách phòng tránh những bệnh lây nhiễm từ vật nuôi. Cũng như con người, thú vật cũng mang những mầm bệnh trên mình và có thể lây truyền mầm bệnh đó cho những người sống chung. Đối tượng dễ bị lây nhiễm nhất là trẻ em nhỏ vì ở tuổi này hệ miễn dịch của trẻ chưa phát triển hoàn thiện nên dễ bị nhiễm và khi phát bệnh sẽ nặng hơn ở người lớn.
Bệnh lao bò có thể lây nhiễm cho người
Tổ chức y tế thế giới ước lượng có khoảng 1/3 dân số thế giới bị nhiễm lao và trong số này có khoảng 8-9 triệu ca biến thành bệnh lao mỗi năm. Gần đây, tin tức về bệnh lao ở người được báo chí quốc tế “hâm nóng” lại nhưng ít người biết được rằng loài thú nhai lại như trâu, bò hươu, nai chẳng hạn cũng có thể bị lao. Ở người, bệnh lao do trực khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra, còn tác nhân của bệnh lao bò là trực khuẩn Mycobacterium bovis. Cách gây bệnh và triệu chứng của hai loại bệnh lao của bò và bệnh lao của người cũng tương tự như nhau.
Bệnh lao bò là gì?
Đây là một bệnh truyền nhiểm do M. bovis gây ra và thường gặp nhất ở loài bò. Bệnh cũng có thể xảy ra ở tất cả loài động vật có vú khác, kể cả loài người. Tiên khởi, trực khuẩn M. bovis bắt đầu tấn công vào các hạch bạch huyết và gây viêm sưng các hạch này. Sau đó theo thời gian trực khuẩn lao lần lần lấn sang các cơ quan khác như phổi. Tùy theo sức đề kháng của con vật mà biến chuyển của bệnh có thể khác nhau. Trường hợp bệnh nặng, khi mổ bò ra chúng ta có thể thấy những u lao (tubercle) như những abcès nho nhỏ từ 0.5-1.0cm đường kính và thường tập trung dưới dạng kết chùm ở màng phổi, hoặc ở màng bụng. Ở thú vật, bệnh lao biến chuyển rất chậm. Dấu hiệu chung chung là bò ốm đi, yếu sức, sốt nhiều ít không chừng, biếng ăn, mất cân và thỉnh thoảng hay ho từng cơn. Đôi khi vi khuẩn “ngủ đông” cả đời trong cơ thể mà không bao giờ gây thành bệnh cho con vật. Rất khó biết được là con vật đã mắc bệnh lao lúc nó đang còn sống. Bệnh thường được phát hiện ra lúc con thú bị hạ thịt và được thú y sĩ khám tại lò sát sinh.
Bệnh lao bò là một bệnh lây nhiễm từ thú sang cho người
Bệnh lao bò có thể lây sang cho người nên được gọi đó là Zoonotic TB… Cần nói rõ là tại các quốc gia Tây phương, nhờ các chương trình xét nghiệm thường xuyên tại nông trại bằng test tuberculine (chích ở khấu đuôi bò) để loại bỏ những con nào có dương tính với bệnh lao nên ngày nay bệnh lao bò đã giảm đi rất nhiều tại các quốc gia tiên tiến. Riêng Canada thì được xem như không có bò bị nhiễm lao nữa…Tại các lò sát sinh Canada, các quầy thịt bò được khám rất kỹ. Chú trọng đặc biệt nhắm vào các hạch bạch huyết để tìm bệnh tích tổn thương dạng u hạt - là dấu hiệu có thể có của bệnh lao bò…Khi cắt các hạch bạch huyết vùng hàm, vùng sau yết hầu, vùng cuống phổi và vùng màng treo ruột, chúng ta thấy hạch có hơi xền xệt (caseous) đôi khi có thêm vài điểm calci hóa. Với các dấu hiệu này rất có thể là con vật đã bị lao. Để cho việc chẩn đoán được chính xác hơn, quầy thịt bị giam lại trong phòng lạnh để chờ kết quả xét nghiệm của phòng thí nghiệm.
Theo kinh nghiệm làm việc của tác giả tại các nhà mổ bò ở Canada, thì rất hiếm thấy kết quả (+) cho biết có sự hiện diện của trực khuẩn lao M. bovis trong bệnh phẩm, nhưng thay vào đó là các loại vi khuẫn nhóm Actinobacillus hoặc Actinomyces, v.v…tức không phải là vi trùng lao. Trong chăn nuôi, nhằm bảo vệ sức khỏe công cộng cho nên người ta không chủ trương chữa trị thú bị nhiễm lao. Tại Canada , bò có dương tính lúc làm test thử nghiệm sẽ bị giết bỏ và Cơ quan kiểm tra thực phẩm CFIA sẽ đền bồi thiệt hại cho nhà chăn nuôi.
Bò truyền bệnh bằng cách nào?
Lúc bò ho, vi khuẩn Mycobacterium bovis dược phun bắn ra ngoài theo bụi nước aérosol gây nhiễm cho môi sinh, cho những con vật khác cũng như cho những người đang làm việc xung quanh con vật bệnh...Ngõ hô hấp là cách lây nhiễm chính. Vi khuẩn cũng có thể nhiễm qua ngõ tiêu hóa như khi chúng ta uống sữa vắt từ bò bị lao mà không được nấu kỹ trước đó. Uống sữa mua trong chợ an toàn hơn vì luật tại các quốc gia Tây phương bắt buộc sữa phải được hấp khử trùng tại nhà máy trước khi đem bán cho người tiêu thụ.
Bệnh lao bò, một vấn đề y tế công cộng!
Ở người bị nhiễm bệnh lao bò thì dấu hiệu xảy ra thường nằm ngoài phổi. Những nơi thường gặp triệu chứng lao là ở các hạch bạch huyết vùng cổ, vùng ruột và một loại bệnh ngoài da mãn tính. Ngày nay bệnh lao bò không phải là bệnh đáng quan tâm của các quốc gia kỹ nghệ giàu có nhưng nó vẫn còn là một vấn đề sức khỏe quan trọng tại phần lớn các quốc gia đang phát triển ở những vùng Đông Nam Á, Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh cũng như tại một số nước Đông Âu thuộc khối liên bang Sô Viết trước đây…Tại các quốc gia Tây phương, bệnh lao nhiễm từ bò chỉ chiếm lối 1% trong tất cả trường hợp lao ở người.
Bệnh lao tái xuất hiện!
Trước đây bệnh lao người (TB) cũng hoành hành dữ dội tại các quốc gia Âu Mỹ, nhưng nhờ vào các tiến bộ y học cũng như về mức sống được nâng cao lên nên hầu như bệnh lao lần lần biến mất đi…Bệnh lao chỉ còn tồn tại tại các xứ nghèo khó mà thôi nhưng từ hơn một chục năm nay tình hình có thay đổi. Gần đây bệnh lao có mòi tái xuất hiện trở lại tại tại các quốc gia Tây phương nhưng lần nầy với những chủng vi trùng dữ hơn và kháng được với nhiều loại thuốc đặc trị bệnh lao. Người ta nghĩ rằng tình trạng nầy có lẽ do các người di dân và người tị nạn đến từ các xứ quốc gia đang phát triển mang theo mầm bệnh lao lúc đi định cư...Sự lạm dụng và sử dụng không đúng cách thuốc men đã làm nẩy sinh ra hiện tượng kháng kháng sinh và gây rất nhiều khó khăn trong việc chữa trị bệnh lao.
Nếu kháng cùng một lúc với 2 loại thuốc kháng sinh chính dùng để trị lao như thuốc Rifampicin và Isoniazidthì gọi là Multidrug-resistant-TB, MDR-TB...Còn trầm trọng hơn nữa nghĩa là kháng cùng một lúc trên 3 loại thuốc kháng sinh thì người ta gọi là Extensivelydrug resistant-TB, XDR-TB…Đây quả thật là một vấn đề nan giải cho y tế thế giới và cũng là một tai ương khác của nhân loại nói chung. Phải chăng ngày nay bệnh lao không còn phải là bệnh chỉ dành riêng cho các quốc gia đang phát triển? Một vấn đề khác cũng đáng được quan tâm là một tỉ lệ khá quan trọng người bị SIDA/AIDS có sức miễn dịch quá yếu nên họ cũng rất dễ bị nhiễm lao do Mycobacterium tuberculosis hoặc Mycobacterium bovis.
Thú rừng nói chung có thể bị nhiễm lao. Các nhà khoa học nghĩ rằng, tiên khởi lao là bệnh của loài bò và sau đó bệnh lây nhiễm sang cho các loài gia súc khác và cho thú rừng để chúng trở thành những ổ chứa (réservoir) trực khuẩn M.bovis và chờ dịp thuận lợi để lây nhiễm trở lại cho bò. Các loài động vật rừng như con possum ở Úc, Tân Tây Lan và con badger ở Anh quốc được xemlà những ổ chứa trực khuẩn M.bovis của bệnh lao bò. Tại Canada , xét nghiệm cho thấy một số bò rừng bison, wapiti (một loại nai) tại tỉnh bang Alberta đôi khi có chứa trực khuẩn Mycobacterium bovis. Ngừa bệnh lao ở bò đồng nghĩa với việc kiểm soát thú rừng. Đây là một vấn đề rất khó thực hiện.
Việc nuôi quá nhiều bò trên một diện tích quá chật hẹp cũng như việc sống gần gũi quá với bò bệnh sẽ làm tăng nguy cơ lây nhiễm Mycobacterim bovis ở thú vật cũng như ở người. Các người nuôi bò, công nhân lò sát sinh và thú y sĩ là những đối tượng dễ bị nhiễm lao bò nhất. Cách phòng ngừa bệnh lao bò tốt nhất là tránh uống sữa vừa mới vắt xong nhưng không được nấu chín hoặc không được hấp khử trùng. Chỉ nên uống sữa đã được hấp khử trùng.
Theo luật của cơ quan kiểm tra thực phẩm Canada (CFIA) bệnh lao bò là một bệnh phải được chủ trại hoặc thú y sĩ khai báo bắt buộc cho cơ quan CFIA. Cơ quan này sẽ gởi thú y sĩ đến trại bò để điều tra tình hình và làm các loại tests xét nghiệm cho cả đàn bò cũng như ấn định những biện pháp thú y thích ứng để bảo vệ sức khỏe công cộng.
Giải pháp ngăn chặn bệnh từ động vật sang người
An toàn vệ sinh thực phẩm có nguồn gốc động vật
Một số nội dung liên quan đến Pháp lệnh Thú y có hiệu lực thi hành từ ngày 1-10-2004. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng:
-Pháp lệnh quy định về phòng bệnh, chữa bệnh cho động vật, chống dịch bệnh động vật; kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y; quản lý thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hóa chất dùng trong thú y; hành nghề thú y.
-Phạm vi áp dụng đối với tất cả các tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động liên quan đến thú y trên lãnh thổ Việt Nam. Theo Pháp lệnh, những hành vi bị nghiêm cấm bao gồm:
+Vi phạm các quy định về vệ sinh thú y đối với cơ sở chăn nuôi, giết mổ, sơ chế, kinh doanh động vật, sản phẩm động vật; cơ sở sản xuất thuốc thú y; chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hóa chất dùng trong thú y; cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi;
+Sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu động vật, sản phẩm động vật, nguyên liệu có nguồn gốc từ động vật dùng để sản xuất thức ăn chăn nuôi, thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ động vật; thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hóa chất dùng trong thú y giả, không đủ tiêu chuẩn vệ sinh thú y, hết hạn sử dụng, không rõ nguồn gốc, bị cấm sử dụng hoặc không được phép lưu hành tại Việt Nam;
+Không thực hiện các biện pháp phòng bệnh bắt buộc cho động vật; Vứt xác động vật làm lây lan dịch bệnh cho động vật, cho người;
+Vận chuyển trái phép động vật mắc bệnh, sản phẩm động vật mang mầm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm từ địa phương này đến địa phương khác;
+Vận chuyển động vật, sản phẩm động vật từ vùng có dịch, vùng bị dịch uy hiếp ra các vùng khác;
+Nhập khẩu xác động vật, vi sinh vật, ký sinh trùng mà không được phép của Bộ NN&PTNT, Bộ Thủy sản;
+Nhập khẩu, xuất khẩu động vật, sản phẩm động vật thuộc danh mục cấm nhập khẩu, xuất khẩu động vật, sản phẩm động vật;
+Nhập khẩu động vật, sản phẩm động vật từ nước, vùng lãnh thổ có dịch bệnh nguy hiểm đối với động vật đó…
+Đánh tráo động vật, sản phẩm động vật đã được kiểm dịch bằng động vật, sản phẩm động vật chưa được kiểm dịch.
+Giết mổ động vật để kinh doanh tại cơ sở giết mổ không đạt tiêu chuẩn vệ sinh thú y.
+Dùng hóa chất cho sản phẩm động vật gây độc hại cho người sử dụng sản phẩm động vật; dùng phẩm mầu không được phép sử dụng; ngâm hóa chất, tiêm nước hoặc các loại dịch lỏng khác vào động vật, sản phẩm động vật.
+Lưu hành thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hóa chất dùng trong thú y không đúng với nội dung nhãn đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về thú y phê duyệt.
+Giả mạo thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hóa chất dùng trong thú y đã được đăng ký lưu hành trên thị trường…
+Các hành vi vi phạm pháp luật khác theo quy định của pháp luật.
-Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc phòng bệnh, chữa bệnh, chống dịch bệnh cho động vật:
+Chủ vật nuôi phải thực hiện các quy định về điều kiện vệ sinh thú y trong chăn nuôi theo quy định và thực hiện các biện pháp phòng bệnh bắt buộc, chữa bệnh, chống dịch bệnh cho động vật;
+Tổ chức, cá nhân khi sử dụng thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y để phòng bệnh, chữa bệnh cho động vật có trách nhiệm: Sử dụng thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y có trong danh mục thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam, danh mục chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y được phép lưu hành tại Việt Nam;
+Thực hiện đúng hướng dẫn sử dụng hoặc chỉ dẫn của bác sĩ, kỹ thuật viên của cơ quan thú y, người được phép hành nghề thú y.
-Quy định về trách nhiệm xử lý dịch bệnh động vật, chủ vật nuôi, chủ sản phẩm động vật có trách nhiệm:
+Chủ vật nuôi phát hiện động vật mắc bệnh, chết do bệnh hoặc có dấu hiệu bệnh thuộc danh mục các bệnh nguy hiểm của động vật không được bán, giết mổ hoặc vứt ra môi trường mà phải cách ly và báo ngay cho nhân viên thú y hoặc cơ quan thú y nơi gần nhất;
+Trên đường vận chuyển, tại cơ sở giết mổ hoặc sơ chế, nếu chủ sản phẩm động vật phát hiện sản phẩm động vật biến chất, không đủ tiêu chuẩn vệ sinh thú y hoặc có dấu hiệu mang mầm bệnh nguy hiểm thì phải báo ngay cho nhân viên thú y hoặc cơ quan thú y nơi gần nhất;
+Khi xác định động vật mắc bệnh, sản phẩm động vật mang mầm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm thuộc danh mục các bệnh phải được công bố dịch bệnh thì chủ vật nuôi, chủ sản phẩm động vật phải cách ly động vật mắc bệnh, bảo quản riêng sản phẩm động vật mang mầm bệnh, bố trí người chăm sóc động vật, sử dụng riêng dụng cụ, thức ăn chăn nuôi động vật;
+Hạn chế lưu thông động vật, sản phẩm động vật, người ra vào cơ sở chăn nuôi; thực hiện các biện pháp xử lý bắt buộc đối với thức ăn chăn nuôi bị ô nhiễm, động vật mắc bệnh, sản phẩm động vật mang mầm bệnh, chất thải động vật theo quy định đối với từng bệnh;
+Vệ sinh, khử trùng tiêu độc tại cơ sở chăn nuôi, giết mổ, sơ chế, dụng cụ chăn nuôi, dụng cụ giết mổ, dụng cụ thú y, phương tiện vận chuyển.
-Nhân viên thú y, cơ quan thú y có trách nhiệm:
+Khi nhận được thông báo có dấu hiệu động vật mắc bệnh, chết do bệnh hoặc có dấu hiệu bệnh thuộc danh mục các bệnh nguy hiểm không được bán, giết mổ hoặc vứt ra môi trường thì nhân viên thú y, cơ quan thú y phải nhanh chóng chẩn đoán, xác định bệnh;
+Khi xác định động vật mắc bệnh, sản phẩm động vật mang mầm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm thuộc danh mục các bệnh phải công bố dịch thì nhân viên thú y, cơ quan thú y phải kịp thời hướng dẫn chủ vật nuôi, chủ sản phẩm động vật thực hiện ngay các biện pháp cách ly, bảo quản sản phẩm động vật theo quy định. Tuỳ theo tính chất, mức độ dịch bệnh, cơ quan thú y báo cáo UBND cùng cấp để thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh đối với khu vực đó, đồng thời báo cáo cơ quan thú y cấp trên trực tiếp.
Tài liệu tham khảo:
1.Nguyễn Thượng Chánh (2007). Bệnh lao bò có thể lây nhiễm sang người. http://www.advite.com
2.Minh Ngọc (theo MSN). http://suckhoedoisong.vn/ Nguy cơ lây nhiễm bệnh từ vật nuôi.
3.Nguyễn Hồng Điệp (2010). Cảnh báo nguy cơ lây truyền các bệnh dịch nguy hiểm mới nổi từ động vật hoang dã vào vật nuôi và người. http://www.monre.gov.vn
4.Đỗ Hương (2010). Những đại dịch lây nhiễm từ động vật. http://www.vcn.vnn.vn/
5.http://www.lamdong.gov.vn/benh lay tu vat nuoi.
6.WHO (2010). Zoonosis
7.Nature (2008). Infectious diseases transmissible between animals and humans