Trong thời gian qua, một số nơi khi chưa bị lũ lụt đã có bệnh tả lưu hành và phát triển thành dịch, nó là một trong số bệnh dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm đã xác định nguyên nhân gây bệnh là phẩy khuẩn tả. Trong mùa mưa bão, đối với những nơi bị ngập lụt, môi trường sống bị ô nhiễm nặng, tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh tả hoành hành và khả năng dịch tả sẽ xảy ra. Vì vậy, các cơ sở cần chủ động ngăn chận dịch tả có thể xảy ra sau lũ lụt.
Đặc điểm của bệnh tả
Bệnh tả là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính gây nên do phẩy khuẩn tả lây truyền qua đường tiêu hóa. Thời gian ủ bệnh của bệnh tả từ vài giờ tới 5 ngày, thường từ 2 đến 3 ngày. Bệnh lây truyền khi còn mầm bệnh ở trong phân và lây lan mạnh nhất trong giai đoạn bệnh nhân đang bị tiêu chảy. Người lành mang vi trùng phẩy khuần tả có thể gieo rắc mầm bệnh trong vài tháng. Việc sử dụng kháng sinh trong điều trị sẽ rút ngắn bớt thời gian lây truyền bệnh. Hiếm khi thấy có những trường hợp mang mầm bệnh kéo dài trong nhiều năm và hiện tượng đào thải vi khuẩn từng đợt qua phân. Nguy cơ mắc bệnh tả có thể thay đổi tùy theo đối tượng như người bị thiểu năng acid dịch vị có nguy cơ mắc bệnh cao, trẻ bú sữa mẹ ít khi mắc bệnh, bệnh tả nặng thường gặp ở những người có nhóm máu O. Tác nhân gây bệnh là phẩy khuẩn tả với các nhóm huyết thanh khác nhau. Bệnh có khả năng tản phát và lưu hành quanh năm ở một số địa phương, thỉnh thoảng bùng phát thành những ổ dịch, vụ dịch. Ngoài ra, các vùng chung quanh, các nước láng giềng trong khu vực cũng có thể có dịch tả lưu hành và có khả năng lây lan ảnh hưởng.
Ổ chứa mầm bệnh và phương thức lây truyền
Người bệnh và những người mắc bệnh không có triệu chứng (người lành mang trùng) là ổ chứa nguồn bệnh quan trọng. Gần đây cũng đã phát hiện và chứng minh được ổ chứa vi khuẩn phẩy khuẩn tả trong môi trường sống của các động vật thủy sinh, các động vật phù du sống trong nước mặn và nước lợ ở các vùng cửa sông, đầm phá ...
Bệnh được lây truyền do ăn phải thức ăn hoặc uống nước bị nhiễm phẩy khuẩn tả. Phương thức lây truyền bệnh từ những nguồn nhiễm vi khuẩn phẩy khuẩn tả phổ biến như nước uống bị nhiễm mầm bệnh ngay từ đầu nguồn (do nước bị nhiễm phân có phẩy khuẩn tả) hoặc trong quá trình dự trữ (do tiếp xúc với tay của người bị nhiễm phẩy khuẩn tả) và nước đá được sản xuất từ nguồn nước bị nhiễm phẩy khuẩn tả. Thực phẩm bị nhiễm phẩy khuẩn tả trong lúc chế biến hoặc sau khi chế biến, hải sản bắt được từ những vùng nước bị nhiễm phẩy khuẩn tả và ăn sống, không nấu chín kỹ hoặc rau, quả được trồng, bón bằng phân tươi, tưới nước có phân người; vẩy nước cho tươi rau quả bằng nước bị nhiễm bẩn ... cũng là nguồn lây truyền mầm bệnh phẩy khuẩn tả khá phổ biến.
|
Một ca tiêu chảy cấp (ảnh sưu tầm) |
Triệu chứng xảy ra khi bị mắc bệnh tả
Khi bị mắc bệnh tả, triệu chứng lâm sàng thường biểu hiện trong các thể bệnh nặng chủ yếu là nôn, tiêu chảy dữ dội, phân có màu trắng như nước vo gạo hoặc màu trong lẫn những hạt lổn nhổn trắng như hạt gạo ... Nếu bệnh nhân không được điều trị kịp thời sẽ nhanh chóng dẫn đến mất nước và điện giải, bị nhiễm độc acid, trụy mạch, hạ huyết áp và sốc dẫn đến tử vong. Thể nhẹ của bệnh tả có triệu chứng lâm sàng giống như bệnh tiêu chảy thường. Tỷ lệ mắc/chết có thể tới trên 50% tùy từng vụ dịch. Nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời, đúng đắn thì tỷ lệ tử vong chỉ chiếm 1%. Chẩn đoán xác định bệnh tả dựa vào các yếu tố dịch tễ, lâm sàng và xét nghiệm. Về dịch tễ, cần khảo sát bệnh nhân có tiếp xúc với nguồn lây nhiễm trong thời kỳ đang có dịch hay không ? Về lâm sàng, cần dựa vào 3 triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh tả là đi tiêu chảy, nôn, mất nước và điện giải. Về xét nghiệm, cần cấy phân để phân lập phẩy khuẩn tả. Một điều phải chú ý là không cần chờ kết quả xét nghiệm mà nên tổ chức điều trị ngay cho bệnh nhân khi có căn cứ xác định bệnh tả từ yếu tố dịch tễ và triệu chứng lâm sàng đã được ghi nhận. Trong khi xác định bệnh tả, cần chú ý chẩn đoán phân biệt với 3 bệnh có triệu chứng lâm sàng tương tự là bệnh sốt rét thể ác tính thể tả, bệnh lỵ trực khuẩn và bệnh nhiễm khuẩn Salmonella do thức ăn.
Điều trị và phòng dịch bệnh tả
Nguyên tăc cơ bản điều trị bệnh tả là phải bù nước và điện giải càng sớm càng tốt, khẩn trương và triệt để. Nếu không có đủ các dung dịch cần thiết thì tìm các loại khác thay thế. Diệt phẩy khuẩn tả bằng kháng sinh có tác dụng chủ yếu là phòng dịch nhiều hơn là điều trị. Việc tổ chức điều trị được thực hiện ngay tại chỗ và sớm sẽ đạt hiệu quả nhiều hơn là chuyển lên tuyến trên mà điều trị muộn. Tốt nhất là tuyến tỉnh, tuyến huyện chi viện cho tuyến xã để tổ chức chống dịch tại xã khi dịch xảy ra. Xác định ngay độ mất nước để có thái độ xử lý đúng đắn, kịp thời.
Chủ động phòng, chống dịch tả là phải xử lý phân thải tốt bằng cách sử dụng các loại hố xí hợp vệ sinh. Không dùng phân tươi để bón rau màu. Cung cấp nước sạch để ăn uống và sử dụng trong sinh hoạt. Truyền thông giáo dục sức khỏe, vận động nhân dân thực hiện tập quán ăn chín, uống sôi, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh bằng xà phòng. Ngoài ra, còn có thể thực hiện một số biện pháp khác trong phòng dịch là sử dụng vaccin phòng tả, giám sát dịch tễ để phát hiện bệnh nhân tả đầu tiên, dự báo khả năng dịch ... để xây dựng biện pháp áp dụng khi có dịch xảy ra.
Hiện nay một số địa phương trên cả nước đang gặp phải hậu quả của những trận mưa lũ lớn làm ngập lụt cả đồng bằng lẫn thị xã, thành phố. Trong và sau khi bị ngập lụt, môi trường sống và sinh hoạt của dân cư bị ô nhiễm nặng nề. Các loại dịch bệnh có khà năng phát triển làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người dân, trong đó có dịch tả. Theo phân vùng dịch tễ, trước đây bệnh tả lưu hành và tản phát quanh năm ở đồng bằng miền Nam và duyên hải miền Trung, thỉnh thoảng bùng phát thành những ổ dịch nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long ... nhưng bây giờ bệnh tả cũng đã được phát hiện và lưu hành ở miền Bắc, kể cả thủ đô Hà Nội. Vì vậy, việc giám sát, kiểm soát bệnh tả và dịch tả cần phải được tất cả các địa phương quan tâm để chủ động tổ chức công tác phòng, chống dịch bệnh có hiệu quả, bảo vệ tốt sức khỏe của người dân nhất là sau khi môi trường bị ngập lụt nặng.