Ngày 5/12/2016. Tổ chức Y tế thế giới (WHO)-Bản tin cập nhật cúm mùa (Seasonal Influenza Update) của WHO nhắc nhở chủng ngừa cúm là cách hiệu quả nhất để phòng ngừa căn bệnh này, trong khi virus cúm mùa lưu hành trên thế giới và dễ dàng lây lan từ người sang người.
Cúm mùa là một vấn đề y tế nghiêm trọng gây ra bệnh cảnh trầm trọng và tử vong ở các quần thể nguy cơ cao, hơn nữa đại dịch cúm có thể gây tổn thất lớn về kinh tế do mất nguồn lao động, sức lao động và kéo căng các dịch vụ y tế.
Tổng quan (Overview)
Cúm mùa là bệnh nhiễm trùng hô hấp cấp tính do vi rút cúm lưu hành khắp nơi trên thế giới bao gồm 3 typ A, B và C. Virus cúm typ A được phân chia thành các phân nhóm theo sự kết hợp của 2 loại protein khác nhau, haemagglutinin (H) và neuraminidase (N) nằm trên bề mặt của virus. Các phân nhóm của vi rút cúm A hiện đang lưu hành ở người là cúm phân typ A (H1N1) và phân typ A (H3N2). Sự lưu hành cúm A (H1N1) cũng được viết là A (H1N1) pdm09 gây đại dịch năm 2009 và sau đó thay thế cúm mùa A (H1N1) chủng virus lưu hành trước 2009, chỉ có virus cúm A được biết có gây đại dịch. Lưu hành virus cúm B có thể được chia thành 2 nhóm chính (dòng) gọi tắt là B/dòng Yamagata và B/dòng Victoria, virus cúm B không được phân loại thành các phân nhóm. Virus cúm A và B lưu hành và gây ra các vụ dịch và đại dịch do đó các chủng liên quan của virus cúm A và B có trong vaccine cúm mùa. Virus cúm C được phát hiện ít thường xuyên hơn và thường gây ra nhiễm trùng nhẹ, ít có ý nghĩa về sức khỏe công cộng .
Các dấu hiệu và triệu chứng (Signs and symptoms)
Sau thời kỳ ủ bệnh khoảng 2 ngày, biểu hiện đặc trưng cúm mùa khởi phát đột ngột với sốt, ho (thường ho khan), nhức đầu, đau cơ và khớp, khó chịu nặng (cảm thấy không được khỏe), đau họng và chảy nước mũi; ho có thể nặng kéo dài hơn 2 tuần. Hầu hết hồi phục sau sốt và các triệu chứng khác trong vòng một tuần mà không cần chăm sóc y tế nhưng cúm có thể gây bệnh cảnh trầm trọng hoặc tử vong đặc biệt là ở những người có nguy cơ cao..
Ai là đối tượng có nguy cơ? (Who is at risk?)
Dịch cúm hàng năm có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các quần thể dân cư nhưng nguy cơ cao nhất các biến chứng xảy ra ở phụ nữ mang thai, trẻ em từ 6-59 tháng, người già, đặc biệt người có bệnh mãn tính như HIV/AIDS, hen suyễn, tim phổi mãn tính và nhân viên y tế.
Sự lan truyền (Transmission)
Cúm mùa lây lan dễ dàng nhanh chóng ở các khu vực đông người như trường học và nhà dưỡng lão, khi người bệnh ho hoặc hắt hơi những giọt chứa virus (giọt gây nhiễm) được phân tán vào không khí và lây lan cho người ở gần khi hít phải các giọt này, virus cũng có thể lây lan bằng tay bị nhiễm virus cúm. Để phòng lây truyền, mọi người nên che miệng và mũi bằng khăn giấy khi ho và rửa tay thường xuyên.
Dịch bệnh theo mùa và gánh nặng bệnh tật (Seasonal epidemics and disease burden)
Ở các vùng khí hậu ôn đới dịch cúm chủ yếu xảy ra mùa đông, còn ở các vùng nhiệt đới cúm mùa có thể xuất hiện quanh năm gây các vụ dịch bất thường hơn. Bệnh từ nhẹ đến nặng thậm chí tử vong, nhập viện và tử vong xảy ra chủ yếu trong các nhóm có nguy cơ cao. Trên thế giới,ước tính dịch bệnh hàng năm làm 3 đến 5 triệu trường hợp bệnh nặng, 250.000-500.000 trường hợp tử vong. Ở các nước công nghiệp phát triển nhất tử vong liên quan với cúm xảy ra ở những người tuổi từ 65 trở lên (1), dịch bệnh có thể dẫn đến một tỷ lệ vắng mặt cao của công nhân/học sinh và năng suất giảm, phòng khám và bệnh viện có thể bị quá tải trong thời gian bệnh cao điểm. Ảnh hưởng của dịch bệnh cúm theo mùa ở các nước đang phát triển không được biết đầy đủ nhưng các ước tính trong nghiên cứu chỉ ra 99% các ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi bị nhiễm cúm liên quan đến nhiễm trùng đường hô hấp dưới được phát hiện ở các nước đang phát triển (2).
Phòng ngừa (Prevention)
Cách phòng cúm mùa hiệu quả nhất là tiêm phòng, vaccine an toàn và hiệu quả sẵn có vàđược sử dụng hơn 60 năm qua. ở những người lớn khỏe mạnh, vaccine cúm cung cấp sự bảo vệ ngay cả khi virus lưu hành có thể không phù hợp với vaccine dùng để chủng ngừa virus. Tuy nhiên, ở những người lớn tuổi chủng ngừa cúm có thể kém hiệu quả trong phòng chống bệnh tật nhưng làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh, tỷ lệ biến chứng và tử vong, tiêm chủng đặc biệt quan trọng với người có nguy cơ cao bị biến chứng cúm nặng, những người sống cùng hoặc chăm sóc các cá thể nguy cơ cao. WHO khuyến cáo tiêm chủng hàng năm đối với phụ nữ mang thai ở bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ, trẻ em từ 6 tháng đến 5 tuổi, người cao tuổi > 65, người có bệnh mãn tính, nhân viên chăm sóc y tế. Thuốc chủng ngừa cúm hiệu quả nhất khi virus lưu hành phù hợp với virus có chứa trong vaccine, do tính chất phát triển liên tục của virus cúm nên hệ thống đáp ứng và giám sát cúm toàn cầu của WHO (GISRS)-mạng lưới các trung tâm cúm quốc gia và các trung tâm hợp tác của WHO trên thế giới liên tục giám sát các virus cúm lưu hành ở người và cập nhật các thành phần của vaccine cúm 2 lần/1 năm. Trong nhiều năm, WHO đã cập nhật khuyến cáo về thành phần của thuốc chủng ngừa tam giá (trivalent) cho 3 type virus phổ biến nhất đang lưu hành (2 phân nhóm của virus cúm A và 1virus cúm B). Bắt đầu mùa cúm 2013-2014 ở Bắc bán cầu, thành phần thứ 4 được khuyến cáo hỗ trợ phát triển vaccine tứ giá (quadrivalent) gồm một virus cúm B thứ 2 ngoài các virus trong vaccine tam giá dự kiến cung cấp bảo vệ rộng hơn chống nhiễm virus cúm B. Một số vaccine cúm bất hoạt và vaccine cúm tái tổ hợp có sẵn ở dạng tiêm, vaccine cúm sống giảm độc lực luôn có sẵn như một loại thuốc khí dung xịt mũi.
Điều trị (Treatment)
Các thuốc kháng virus cúm sẵn có ở một số nước có thể làm giảm biến chứng nặng và tử vong, lý tưởng nhất là dùng sớm khi bị nhiễm bệnh (trong vòng 48 giờ sau khởi phát) 2 loại thuốc bao gồm chất ức chế protein neuraminidase cúm (oseltamivir và zanamivir cũng như peramivir và laninamivir được cấp phép ở một số nước); thuốc adamantanes chẹn kênh M2 proton (amantadine và rimantadine) tới chủng virus đề kháng được báo cáo thường xuyên, hạn chế hiệu quả điều trị. WHO theo dõi tính nhạy cảm của các thuốc kháng virus lưu hành cúm để cung cấp hướng dẫn kịp thời sử dụng thuốc kháng trong xử lý lâm sàng và điều trị dự phòng tiềm năng. Hiện nay, phần lớn các virus cúm lưu hành kháng với adamantanes và WHO khuyến cáo các thuốc ức chế neuraminidase là thuốc điều trị ưu tiên cho những người cần điều trị thuốc kháng virus.
Đáp ứng của WHO (WHO response)
Thông qua mạng lưới GISRS, WHO phối hợp với các đối tác khác giám sát hoạt động phòng chống cúm toàn cầu, khuyến nghị các thành phần vaccine cúm theo mùa hai lần một năm cho cúm mùa ở Bắc và Nam bán cầu, hỗ trợ những nỗ lực của các nước thành viên phát triển các chiến lược phòng chống và kiểm soát. WHO làm việc nhằm tăng cường năng lực ứng phó cúm quốc gia, khu vực và toàn cầu bao gồm công cụ chẩn đoán, giám sát tính nhạy cảm của thuốc kháng virus, giám sát dịch bệnh và đáp ứng vụ dịch, gia tăng tỷ lệ tiêm chủng trong các nhóm có nguy cơ cao và chuẩn bị cho đại dịch cúm sắp tới.
Tài liệu tham khảo:
1 Estimates of US influenza-associated deaths made using four different methods.
Thompson WW, Weintraub E, Dhankhar P, Cheng OY, Brammer L, Meltzer MI, et al. Influenza Other Respi Viruses. 2009;3:37-49
2 Global burden of respiratory infections due to seasonal influenza in young children: a systematic review and meta-analysis.
Nair H, Abdullah Brooks W, Katz M et al. Lancet 2011; 378: 1917–3