Theo thông báo của Sở Y tế tỉnh Thừa Thiên Huế, năm 2008 bệnh thủy đậu đã phát triển với khả năng lây truyền tại huyện Hương Trà và Quảng Điền. Vào ngày 22/12/2008, có 23 học sinh ở cùng lớp 10B5 thuộc trường phổ thông trung học Đặng Huy Trứ, huyện Hương Trà đã bị mắc bệnh thủy đậu được Phòng khám bệnh đa khoa khu vực Km 9 phát hiện, điều trị. Trung tâm Y tế huyện đã nhanh chóng triển khai công tác truyền thông giáo dục sức khỏe và biện pháp xử lý môi trường, chủ động phòng chống dịch bệnh có thể xảy ra. Thủy đậu là bệnh từ lâu đã được khống chế nhưng hiện nay đang có xu hướng phát triển, vì vậy các cơ sở y tế cần chú ý để thực hiện các biện pháp phòng bệnh, phát hiện, giải quyết bệnh kịp thời, tránh được những biến chứng do bệnh gây nên và sự bùng phát dịch.
Đặc điểm của bệnh thủy đậu
Bệnh thủy đậu còn được gọi là bệnh trái rạ, bệnh bỏng rạ, bệnh tót (varicella, chicken pox) do virus Varicella zoster gây ra. Đây là một bệnh truyền nhiễm cấp tính xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phần lớn là ở trẻ em, bệnh có thể phát triển thành dịch với nhiều người bị mắc bệnh. Bệnh thường nhẹ và diễn biến trong thời gian ngắn ở trẻ em khỏe mạnh. Tuy nhiên ở người lớn hoặc người bị suy giảm miễn dịch, bệnh có thể diễn biến nặng và có thể gây tử vong. Tỷ lệ tử vong khoảng từ 7 đến 10% ở người bị suy giảm miễn dịch, ở trẻ em bình thường tỷ lệ này chỉ chiếm khoảng 0,1 đến 0,4%. Thời kỳ ủ bệnh của thủy đậu kéo dài khoảng 14-15 ngày. Bệnh khởi phát với các triệu chứng sốt, mệt mỏi, nhức đầu, đau mỏi cơ khớp, dễ kích thích ngứa rồi xuất hiện phát |
Virus Varicella zoster. (Nguồn: health.usnews.com) |
ban. Sau đó nổi các nốt phỏng rải rác toàn thân nhưng phần lớn tập trung ở da đầu, mặt, ngực, lưng và bụng. Những trường hợp nặng có thể có nốt phỏng kèm theo xuất huyết. Các nốt phỏng dần dần sẽ vỡ ra và đóng vảy. Tổn thương do nốt phỏng thường cạn nên ít khi có sẹo sau khi bong vảy. Khoảng 5% các trường hợp bệnh thủy đậu không có biểu hiện lâm sàng. Thủy đậu cấp tính có thể gây biến chứng viêm tiểu não, viêm màng não vô khuẩn, viêm tủy thoáng qua, giảm tiểu cầu và viêm phổi. Rất hiếm các trường hợp có tổn thương khớp và nội tạng. Tuy nhiên, nếu vệ sinh cá nhân kém có thể gây bội nhiễm làm nhiễm khuẩn ở da nặng hoặc nhiễm trùng huyết do tụ cầu. Bệnh thủy đậu ở trẻ sơ sinh xảy ra rất nặng, hội chứng thủy đậu bẩm sinh đã được ghi nhận ở những phụ nữ mắc bệnh thủy đậu trong nửa đầu của thai kỳ, có thể dẫn đến dị dạng bào thai ở sọ, da hoặc các bất thường khác. Các nghiên cứu đã cho thấy phụ nữ mang thai vào tuần thứ 13-20 bị mắc bệnh thủy đậu sẽ có những tai biến lớn.
Sự lây truyền bệnh thủy đậu
Thủy đậu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính rất dễ lây lan. Người bệnh là nguồn lây nhiễm duy nhất và có khả năng lây lan ngay từ khi bệnh nhân có triệu chứng đầu tiên cho đến khi nốt phỏng của thủy đậu đóng vảy, thường vào ngày thứ 7 kể từ khi nốt phỏng thủy đậu mọc. Người bệnh lây nhiễm virus thủy đậu có trong đờm dãi, nước mũi, nước bọt ... truyền sang người lành khi nói, ho hoặc hắt hơi ... Virus gây bệnh xâm nhập vào cơ thể qua mũi, họng rồi theo đường máu đến khu trú ở lớp tế bào thượng bì da và niêm mạc như niêm mạc miệng, kết mạc mắt... và gây nên những nốt phỏng ở đó. Bệnh cũng có thể lây truyền qua sự va chạm vào ban ngứa của người bị thuỷ đậu hoặc qua sự tiếp xúc quần áo, vải trải giường bị ô nhiễm bởi chất dịch thải ra từ ban ngứa, từ miệng hay mũi của người bị bệnh. Bệnh thuỷ đậu có thể lây lan từ 1-2 ngày trước khi nổi ban ngứa cho đến khi tất cả những nốt phỏng da đã đóng vảy, thông thường trong vòng 5 ngày từ khi những nốt phỏng da nổi lên. Những người có hệ miễn dịch suy yếu bị mắc bệnh thủy đậu thì có thể phải mất một thời gian lâu hơn để những nốt phỏng thuỷ đậu đóng vảy. Tỷ lệ mắc bệnh và lây lan thường cao ở các đô thị, nơi dân cư đông đúc và thường xảy ra trong những tháng mùa lạnh. Tuổi mắc nhiều nhất là từ 2-7 tuổi, ít khi gặp ở trẻ dưới 6 tháng. Người lớn cũng có thể bị mắc bệnh nếu như lúc nhỏ chưa mắc. Khoảng 90% những người chưa từng bị bệnh thuỷ đậu trong cùng một gia đình sẽ bị mắc bệnh nếu tiếp xúc với một nguời thân trong nhà bị nhiễm bệnh. Khi bệnh khỏi, cơ thể người bệnh sẽ thu nhận được sự miễn dịch bền vững. Tuy nhiên, những người bị suy yếu hệ miễn dịch có thể nhiễm bệnh lần thứ hai nhưng thường xảy ra nhẹ.
Phòng bệnh thủy đậu
|
Vaccin thủy đậu Varilrix |
Phòng bệnh thủy đậu tốt nhất là sử dụng vaccin. Hiện nay vaccine thủy đậu có tên thương mại là Varilrix do hãng GlaxoSmithKline Biologicals S.A sản xuất, có thời gian bảo vệ trên 5 năm. Vaccine chống thuỷ đậu có hiệu quả cao và lâu dài, giúp cho cơ thể tạo được kháng thể chống lại virus thủy đậu, được áp dụng đối với các đối tượng như tất cả trẻ em từ 12-18 tháng tuổi được tiêm 1 lần, trẻ em từ 19 tháng tuổi đến 13 tuổi chưa từng bị thuỷ đậu lần nào cũng tiêm 1 lần, trẻ em trên 13 tuổi và người lớn chưa từng bị thủy đậu lần nào thì nên tiêm 2 lần, nhắc lại cách nhau từ 4-8 tuần.Hiệu quả bảo vệ của vaccine thủy đậu có tác dụng lâu bền.Nếu đã được chủng ngừa vaccine thủy đậu thì 80-90% người đã được tiêm chủng có khả năng phòng bệnh tuyệt đối. Tuy nhiên, cũng có khoảng 10% còn lại có thể bị bệnh thủy đậu sau khi tiêm chủng, nhưng các trường hợp này cũng chỉ xảy ra nhẹ với rất ít nốt phỏng thủy đậu, khoảng dưới 50 nốt và thường là không bị biến chứng. Thời gian ủ bệnh của thuỷ đậu từ 1-2 tuần sau khi tiếp xúc với bệnh nhân, do đó nếu chưa được tiêm phòng vaccine thuỷ đậu mà có tiếp xúc với bệnh nhân thuỷ đậu, trong vòng 3 ngày ta có thể tiêm ngừa thì vaccine có thể phát huy tác dụng bảo vệ ngay sau đó, giúp phòng ngừa được bệnh thủy đậu mắc phải. Người mắc thủy đậu có thể truyền bệnh cho người khác từ 24 giờ trước khi phát ban cho đến khi những nốt phỏng thủy đậu đóng vảy, trung bình thường từ 7 đến 8 ngày. Vì vậy, ngay sau khi phát hiện bệnh, cần cách ly bệnh nhân để điều trị, tránh tiếp xúc với người bệnh cho đến khi bệnh khỏi hẳn.
Điều trị bệnh thủy đậu
Mục đích chủ yếu của việc điều trị là giảm nguy cơ gây nên các biến chứng của bệnh. Bệnh nhân nên dùng thuốc chống ngứa ở tại chỗ hoặc toàn thân, nếu cần có thể uống thuốc an thần.Tắm rửa hàng ngày bằng dung dịch sát trùng, cắt ngắn móng tay, mặc áo quần kín để tránh nhiễm trùng và chống ngứa.Có thể dùng các thuốc giảm đau, hạ sốt và chú ý không nên dùng thuốc aspirin cho trẻ em vì thuốc này có thể gây nên hội chứng Reye với các biểu hiện như bồn chồn, lo âu, kích thích, hôn mê, co giật do phù não. Nếu muốn dùng các loại thuốc chống virus thủy đậu, bệnh nhân cần theo chỉ định của bác sĩ.
Theo kinh nghiệm hàng năm, cứ vào thời điểm chuyển từ mùa đông sang mùa xuân, bệnh thủy đậu bắt đầu có xu hướng phát triển. Dịch bệnh thường bùng phát mạnh từ tháng 3 đến tháng 5. Từ đầu năm 2008, Viện các bệnh Truyền nhiễm và Nhiệt đới Quốc gia đã tiếp nhận nhiều bệnh nhân bị bệnh thủy đậu nhập viện điều trị, người bệnh không phải là đối tượng trẻ em mà là người lớn. Những năm gần đây, nhiều trẻ em đã được tiêm vaccin phòng bệnh thủy đậu nên số trẻ mắc phải bệnh này đã giảm đi đáng kể nhưng lại xuất hiện bệnh ở nhiều người lớn do chủ quan không tiêm phòng. Vì vậy các cơ sở y tế cần chú ý để triển khai các biện pháp truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh, phát hiện và điều trị bệnh kịp thời, tránh những biến chứng do bệnh gây nên và sự bùng phát thành dịch.