Tại Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại đây, báo cáo tổng kết tình hình bệnh tật hàng năm tại Bệnh viện bệnh nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh cũng cho thấy số trường hợp nhiễm S. suis ngày càng gia tăng. Từ năm 1996 đến 1998, mỗi năm chỉ ghi nhận 1 - 3 bệnh nhân, năm 1999 đến 2003 trung bình mỗi năm có khoảng 13 trường hợp, riêng năm 2004 tăng lên đến 19 trường hợp bệnh do S. suis. Tính đến tháng 7.2007 tổng số bệnh nhân nhiễm S. suis nhập viện vào BV bệnh nhiệt đới vào khoảng 230 người. Người bị bệnh có thể do tiếp xúc trực tiếp với heo hay thịt heo nhiễm S. suis chưa nấu chín. Bệnh nhân có thể bị viêm màng não mủ, nhiễm trùng huyết, viêm phổi, viêm nội tâm mạc, viêm nội nhãn..., có trường hợp dẫn đến tử vong.
Streptococcus suis (S. suis) là một loại vi khuẩn gram dương, hình hạt đậu và là một tác nhân gây bệnh quan trọng ở lợn. Bệnh có hầu khắp các quốc gia và tùy thuộc vào diện công nghiệp chăn nuôi lợn. S. suis cũng là một bệnh lây truyền từ động vật sang người (zoonotic disease), có khả năng lan truyền từ lợn, người có thể nhiễm S. suis khi họ có cơ hội tiếp xúc với các xác súc vật như lợn và thịt lợn, đặc biệt khi họ có các vết thương hoặc xây sát trên tay tiếp xúc với vi khuẩn này. Nhiễm khuẩn ở người có thể nghiêm trọng, có thể viêm màng não, nhiễm trùng máu, viêm nội tâm mạc và điếc có thể là một hậu quả của nhiễm trùng. Tử vong do nhiễm liên cầu lợn ít gặp, nhưng thường không biết. Penicillin là kháng sinh thường lựa chọn sử dụng điều trị nhiễm trùng liên cầu S. suis; trong trường hợp liên quan đến tim mạch (viêm nội tâm mạc), gentamycine nên được cho để tăng hiệu ứng cộng lực (synergistic effect).
Về phân loại khoa học, Streptococcus suis được xếp loại vào giới: vi khuẩn, ngành: Firmicutes, lớp: Bacilli, bộ: Lactobacillales, họ: Streptococcaceae, giống: Streptococcus, loài: S. suis, tên khoa học hay gọi là Streptococcus suis (Elliot 1966; Kilpper-Bälz và Schleifer., 1987). Bệnh liên cầu khuẩn lợn do Streptococcus suis (S. suis) gây nên, bệnh xảy ra trên lợn là chủ yếu, ở nhiều nơi trên thế giới và gây tổn thất lớn về kinh tế. Bệnh liên cầu lợn có thể lây cho người, vì vậy nó được xếp vào nhóm các bệnh lây truyền từ động vật sang người.
BỆNH LÝ LIÊN CẦU LỢN Ở LỢN
Liên cầu khuẩn S. suis nhiễm phổ biến ở lợn con từ một vài tuần tuổi đến sau cai sữa vài tuần. Đặc trưng lâm sàng của bệnh là nhiễm trùng huyết, viêm màng não, viêm khớp và viêm phế quản phổi. Streptoccocus suis típ 2 có thể gây bệnh cho người.
Một số nét về dịch tễ học
Bệnh gây ra do S. suis xảy ra ở những nơi có nuôi lợn trên khắp thế giới. Lợn con sơ sinh đến 22 tuần tuổi đều có thể bị mắc. Nhiều trường hợp xảy ra sau khi cai sữa liên quan đến yếu tố stress như vận chuyển, xáo trộn đàn, mật độ quá cao, không đủ thông gió. S. suis típ 2 gây ra nhiều ổ dịch viêm màng não lợn con 10–14 ngày sau cai sữa. Gần đây, bệnh hay xảy ra ở lợn sau cai sữa chăn nuôi tập trung với mật độ cao. Vi khuẩn còn phân lập được ở bò, dê, cừu, ngựa khi viêm màng não.
Sự lưu hành vi khuẩn: bằng nhiều phương pháp khác nhau người ta đã xác định được sự lưu hành của vi khuẩn trong đàn lợn như nuôi cấy phát hiện vi khuẩn từ các mô lấy từ lò giết mổ, từ lợn con theo mẹ các lứa tuổi và phản ứng huyết thanh học đối với lợn lớn. S. suis típ 2 được phát hiện ở hầu hết các nước có chăn nuôi lợn. Một nghiên cứu ở lò mổ lợn của Úc và Niu-di-lân cho thấy ở hạch amidan đã phát hiện thấy 54% số mẫu nhiễm S. suis típ 1 và 73% nhiễm với S. suis típ 2; 3% phát hiện thấy vi khuẩn này trong máu lợn khi giết mổ. Có thể phân lập được vi khuẩn ở nhiều mô khác nhau, trong đó có cả ở đường sinh dục con cái, nhưng không thấy ở con đực. Vi khuẩn có thể phân lập từ âm đạo con nái điều này làm cho con non bị nhiễm trong khi sinh. Nhiễm từ môi trường bên ngoài cũng chiếm tỷ lệ cao. Năm 1990, người ta đã xác định có ít nhất 23 serotype. Ở Canada phân lập được tất cả 23 típ, trong đó típ 2 chiếm tỷ lệ cao nhất với 32%. S. suis típ 2 lưu hành phổ biến ở các nước. Trong một nghiên cứu điều tra ở Quebec đối với lợn con khoẻ mạnh về lâm sàng 4 – 8 tuần tuổi cho kết quả 94% số lợn phân lập được vi khuẩn và 98% số trại bị nhiễm. Những serotype thường thấy theo thứ tự giảm dần là 3, 4, 8 và 2; có 32% số lợn con phát hiện nhiễm 2 serotype phân biệt, nhiễm 3 serotype là 1%. Serotype 1 và 2 phân lập từ lợn con viêm màng não và viêm phổi hoá mủ. Ở Đan Mạch, serotype 7 phát hiện nhiều hơn các serotype khác, chiếm 75%. Ở Phần Lan, phân lập từ lợn chết, thấy nhiều nhất là serotype 7 sau đó là 3 và 2, thường phân lập từ lợn viêm phổi. Ở Hà Lan, S. suis típ 2 phân lập phổ biến nhất ở lợn viêm màng não. Xét nghiệm từ hạch amidan lợn ở lò mổ (lợn khoẻ mạnh) ở vùng trước đó có nhiễm liên cầu típ 2 thấy 45% số mẫu dương tính, ở vùng không có bệnh là 38%. Ở Úc, liên cầu lợn típ 9 và típ 2 cho là nguyên nhân gây ra nhiễm trùng huyết và viêm màng não ở lợn cai sữa. Ở Canada, trong số lợn bệnh phát hiện thấy nhiều nhất là S. suis típ 2 sau đó là típ 3, 5 và 7.
Tỷ lệ mắc và tỷ lệ chết
Tỷ lệ mắc bệnh có biểu hiện lâm sàng từ 0 đến 15%. Điều tra tại một trại giống trong 2 năm cho thấy tỷ lệ mắc liên cầu típ 2 là 3,8%, tỷ lệ chết là 9,1%. Ở Anh quốc, tỷ lệ mắc bệnh tăng đáng kể trong những năm gần đây.
Cách lây truyền
Vi khuẩn khu trú ở hạch amidan và mũi lợn khoẻ, vi khuẩn từ con khoẻ này truyền cho lợn không bị nhiễm có thể xảy ra trong vòng 5 ngày sau khi nhốt chung. Việc đưa những con nái hậu bị từ đàn nhiễm bệnh có thể gây bệnh cho lợn con theo mẹ và lợn choai ở đàn tiếp nhận. Có thể phát hiện tỷ lệ mang trùng ở lợn các lứa tuổi khác nhau từ 0 đến 80% và cao nhất ở nhóm tuổi sau cai sữa từ 4 đến 10 tuần tuổi. Trong một đàn có thể có tới 80% số lợn nái là con mang trùng không thể hiện triệu chứng bệnh. Những con mang trùng đã cai sữa sẽ truyền vi khuẩn cho những con không bị nhiễm khác khi nhập đàn. Vi khuẩn tồn tại ở hạch amidan lợn mang trùng hơn 1 năm, ngay cả khi có các yếu tố thực bào, kháng thể và bổ sung kháng sinh phù hợp trong thức ăn. Điều này cho thấy vi khuẩn mang tính địa phương ở một số đàn nhưng không thể hiện bệnh lâm sàng. Ruồi nhà có thể mang vi khuẩn ít nhất 5 ngày có thể gây nhiễm vào thức ăn ít nhất 4 ngày.
S. suis típ 2 có thể phân lập được từ các mẫu thu thập ở đàn nhiễm khuẩn tại các lò mổ lợn. Trong một số điều tra ở lò mổ cho thấy tỷ lệ mang trùng từ 32 – 50% lợn từ 4 đến 6 tháng tuổi. Điều này có thể giải thích tỷ lệ mắc viêm màng não cao ở người Hà Lan do S. suis típ 2. Vi khuẩn này là nguy cơ lớn đối với công nhân giết mổ lợn, đặc biệt là những người xử lý nội tạng, người cắt bỏ thanh quản và phổi. Họ phơi nhiễm cao hơn so với những công nhân giết mổ khác. S. suis típ 2 cũng được phát hiện từ lợn viêm phế quản phổi, như vai trò thứ phát đối với bệnh suyễn, viêm khớp, viêm âm đạo, thai bị sẩy, lợn sơ sinh 1 – 2 ngày tuổi bị chết do nhiễm trùng huyết. Ở Bắc Mỹ, vi khuẩn phát hiện thấy nhiều hơn trong bệnh viêm phổi so với các nước khác.
Một số yếu tố nguy cơ
Yếu tố vật chủ làm cho lợn mắc bệnh lâm sàng còn chưa biết. Người ta cho rằng các chủng Str. suis típ 2 có khác nhau về khả năng gây bệnh, đồng thời sự xuất hiện bệnh phụ thuộc vào sự phơi nhiễm với chủng gây bệnh và những tác nhân bội nhiễm còn chưa xác định. Lứa tuổi mắc cao nhất từ 5 đến 10 tuần tuổi, như vậy có thể các tác nhân stress của cai sữa đã làm cho tính mẫn cảm với bệnh tăng lên.
-Tác nhân môi trường: tỷ lệ mắc bệnh lâm sàng phụ thuộc vào tác nhân môi trường như không đủ thông thoáng, mật độ đàn cao và các stress khác. Việc xáo trộn và vận chuyển lợn cũng hay làm bệnh phát ra. Sự lây lan được truyền trực tiếp từ con mẹ mang trùng cho lợn con, từ lợn con này lại truyền cho lợn con mẫn cảm khác;
-Yếu tố mầm bệnh: hiện được biết có ít nhất 28 serotype S. suis. Vi khuẩn được chia ra thành các nhóm serotype đặc trưng bởi kháng nguyên vỏ bọc polysaccharide. Ở Canada, 94% lợn con 4 -8 tuần tuổi khoẻ mạnh về lâm sàng có chứa vi khuẩn ở xoang mũi. S. suis típ 2 có thể sống trong phân ở nhiệt độ 0oC tới 104 ngày, 10 ngày ở 9oC, 8 ngày ở 22- 25oC; có thể sống ở bụi 25 ngày ở 9oC, nhưng không phân lập được ở bụi nhiệt độ trong phòng (18 - 20oC) trong 24 giờ. Vi khuẩn bị vô hoạt nhanh chóng bằng các thuốc sát trùng dùng phổ biến ở các trại chăn nuôi. Nước xà phòng nồng độ 1/500 có thể diệt vi khuẩn trong vòng 1 phút. Vi khuẩn có thể sống trong xác lợn chết ở 40oC trong 6 tuần, đây có thể là nguồn lây nhiễm cho con người. Có sự khác nhau về khả năng gây bệnh giữa các serotype; ở Anh khả năng gây bệnh của típ 1 và 2 khác nhau, típ 1 gây bệnh ít trầm trọng ở lợn con, trong khi đó típ 2 gây bệnh nặng hơn và gây bệnh cấp tính ở lợn lớn hơn và lợn nuôi vỗ béo. Sự phân biệt giữa các chủng của S. suis típ 2 là về khả năng gây viêm màng não;
-Yếu tố độc lực của vi khuẩn bao gồm cấu trúc các protein hoạt hoá men muramidasa và thành phần mặt ngoài màng tế bào vi khuẩn. Sự phân biệt độc lực giữa các chủng của cùng serotip dựa trên có hay không protein hoạt hoá men muramidase. Chất liệu vỏ bọc của vi khuẩn tạo ra sự khác biệt giữa các serotip về hình thái học. Một số chủng có đặc tính ngưng kết hồng cầu. Liên cầu típ 2 có yếu tố bám dính phát hiện ở phổi lợn. Kỹ thuật phân tích nhân sử dụng để xác định cấu trúc gen vi khuẩn. Yếu tố độc lực của vi khuẩn Str. suis típ 2 được xác định là do protein có trọng lượng phân tử 44 kDa, sự có mặt của kháng thể chống lại protein này có thể bảo vệ con vật chống lại bệnh.
Sự nhiễm bệnh trên người
Người nhiễm phổ biến với S. suis típ 2 và thường xảy ra với người tiếp xúc với lợn hoặc sản phẩm tươi sống của chúng. Ở Anh, tỷ lệ nhiễm S. suis típ 2 cao nhất là người bán thịt lợn và công nhân giết mổ lợn, lây truyền chủ yếu qua vết thương xây sát trên da. Biểu hiện lâm sàng ở người bao gồm viêm màng não, nhiễm trùng huyết kèm theo viêm khớp, nội võng mạc và viêm tắc mạch máu. Viêm nội tâm mạc và viêm dạ dày ruột cấp tính cũng có thể xảy ra. Trong số 35 người mắc bệnh viêm màng não do S. suis típ 2 ở Anh cho thấy 50% số bệnh nhân bị điếc, 30% chóng mặt và mất phối hợp, 53% viêm khớp; 13% tử vong. Vi khuẩn ở trong đại thực bào xâm nhập vào dịch não tuỷ, theo cơ chế “nội công” (ý nói vi khuẩn ở trong đại thực bào mới vào được dịch não tuỷ). Điếc là do vi khuẩn xâm nhập từ bề mặt dưới lưới nhện vào phần dịch ở chỗ phân cách màng và xương búa của tai trong. Lợn nhiễm khuẩn không thể hiện lâm sàng đưa vào lò giết mổ là nguồn lây nhiễm tiềm tàng cho công nhân giết mổ; những người xử lý nội tạng, cắt bỏ phổi và thanh quản có nguy cơ cao hơn so với công nhân giết mổ khác. Trong các đàn lợn nhiễm bệnh ở Niu-di-lân, tới 100% lợn mang trùng, việc lây nhiễm S. suis típ 2 có thể là một trong những vi khuẩn lây bệnh cho người cao nhất ở Niu-di-lân, mặc dù rất ít khi gây bệnh có biểu hiện lâm sàng. Tỷ lệ nhiễm không thể hiện lâm sàng, nhưng có phát hiện kháng thể hàng năm ở công nhân chăn nuôi lợn khoảng 28% ở Niu-di-lân.
Cách sinh bệnh
Vi khuẩn khu trú ở các hốc của hạch amidan, sau đó xâm nhập vào hệ tuần hoàn gây ra bệnh ở một số lợn. Lợn con thường bị chết do nhiễm trùng máu cấp tính, lợn lớn hơn vi khuẩn có thể khu trú ở các xoang hoạt dịch, nội tâm mạc, mắt, màng não. Thời gian nhiễm khuẩn huyết là pha quan trọng trong quá trình phát sinh viêm màng não do S. suis típ 2. Những mẫu vi khuẩn S. suis típ 2 gây bệnh phân lập được là loại có vỏ bọc và đề kháng khá cao với thực bào. Chúng có thể sống và nhân lên trong đại thực bào, vi khuẩn có thể xâm nhập vào dịch não tuỷ thông qua bạch cầu đơn nhân di chuyển qua lưới mao mạch. Cơ chế xâm nhập của vi khuẩn theo cách “nội công” cũng xảy ra ở một số virus gây bệnh ở hệ thần thần kinh trung ương. Bệnh có thể gây thực nghiệm ở lợn bằng cách tiêm ven, nhỏ mũi.
Triệu chứng lâm sàng
Viêm màng não và viêm khớp có thể xảy ra riêng rẽ hoặc kết hợp phổ biến ở lợn 2-6 tuần tuổi, lợn con bị nhiễm trong cùng một ổ mắc nặng hơn. Viêm màng não với phản ứng toàn thân như sốt, biếng ăn và cơ thể suy sụp. Bước đi cứng nhắc, lợn con đứng trên đầu ngón chân, phần sau thân đu đưa, tai xuôi ép về phía thân; có thể bị mù, co giật cơ, mất cân bằng, nằm nghiêng một bên, chân đạp bơi chèo rồi chết. Một số trường hợp viêm rốn. Viêm nội tâm mạc ở lợn thường thấy khi hôn mê hoặc chết không có biểu hiện triệu chứng trước đó. Trong các đợt dịch viêm màng não do Str. suis típ 2, biểu hiện chết đột ngột một hoặc nhiều con có thể là dấu hiệu đầu tiên, những con còn sống mất phối hợp sau đó nhanh chóng chuyển sang nằm phủ phục. Có hiện tượng co giật nhãn cầu, đạp bơi chèo, rối loạn và chết dưới 4 giờ. Thường sốt tới 41oC. Ở Anh, viêm màng não hay gặp nhất ở lợn mới cai sữa, viêm khớp hay gặp ở lợn non hơn. Ngoài ra, còn thấy viêm van tim ở lợn 13 tuần tuổi nuôi vỗ béo ở trại lợn có tiền sử mắc viêm màng não do liên cầu.
Vi khuẩn có thể nuôi cấy từ dịch khớp, dịch não tuỷ, máu, mô não, phổi, mẫu swab từ hạch amidan lợn khoẻ.
Bệnh tích
Lợn chết do S. suis típ 2, bệnh tích đại thể, vi thể bao gồm một hoặc nhiều ổ viêm tương mạc hoá mủ, viêm phổi và màng phổi xuất huyết hoặc viêm tơ huyết, viêm màng não mủ, viêm cơ tim thoái hoá xuất huyết, viêm van tim hai lá. Trong trường hợp viêm màng não, dịch não tuỷ bị đục, xung huyết và viêm màng não tích tụ thể trắng, ổ mủ ở vùng dưới nhện. Hầu hết các trường hợp lưới võng mạc nội mô bị ảnh hưởng nặng, các mạch máu ở tâm thất, não và tuỷ sống bị tắc nghẽn do dịch thẩm xuất, nhiều khi gây ra phù não. Mô thần kinh của tuỷ sống, tiểu não và cuống não có thể biểu hiện thoái hoá dạng lỏng.
Chẩn đoán
Có thể thấy viêm khớp rải rác ở lợn do tụ cầu trùng nhưng phổ biến hơn vẫn là liên cầu trùng. Viêm khớp do Mycoplasma hyorhinis sinh mủ ít hơn do đó cần phải nuôi cấy xác định. Bệnh Glasser (bệnh gây ra bởi Haemophilus spp biểu hiện viêm đa khớp cấp tính, viêm màng phổi, viêm bao tim và viêm phúc mạc) thường xảy ra ở lợn lớn hơn và kèm theo viêm màng phổi và phúc mạc. Bệnh Đóng dấu lợn ở lợn non thường biểu hiện nhiễm trùng huyết. Bệnh hệ thần kinh ở lợn con có thể kế tiếp viêm khớp nhẹ nhưng không sưng khớp và không biểu hiện què. Tuy nhiên, thể viêm màng não do nhiễm Streptococcus có thể dễ nhầm lẫn với viêm do vi rút. Viêm màng não ở bê non cũng có thể gây ra do Pasteurella multocida. Viêm đa khớp ở bê, cừu và lợn con cũng có thể gây ra do Actinomyces (Corynebacterium) pyogenes và Fusobacterium necrophorum. S. suis típ 2 cũng có thể gây viêm màng não ở lợn lớn từ 10 – 14 tuần tuổi.
Điều trị
Trong một vài thử nghiệm tính mẫn cảm kháng sinh cho thấy vi khuẩn mẫn cảm với Ampicillin, Penicillin, Trimethoprim-Sulfamethoxazole, kháng với Lincomycin, Erythromycin, Neomycine, Streptomycine và Tetracycline. Trong thí nghiệm khác lại cho thấy tất cả các mẫu vi khuẩn phân lập được mẫn cảm với Penicillin và Ampicillin, 1/3 kháng với Trimethoprim-Sulfamethoxazole, kháng rất mạnh với Gentamicin, Nitrofuran và Tetracyclin. Tính mẫn cảm của penicillin có thể không lâu dài với tất cả các chủng S. suis vì vậy nếu dùng lâu phải đánh giá lại tính mẫn cảm. Điều trị lợn viêm màng não do Str. suis típ 2 có thể dùng với Trimethoprim-Sulfadiazin hoặc Penicillin làm giảm tỷ lệ chết từ 55% xuống 21%
Phòng chống
Hiện tại, chưa có biện pháp đặc hiệu để phòng viêm não do nhiễm S. suis típ 2 ở lợn con đang bú sữa, nhưng cần phải chú ý quản lý đàn và vệ sinh thú y. Dùng thuốc sớm ở lợn con theo mẹ và áp dụng các kỹ thuật làm sạch mầm bệnh áp dụng cho các đàn đã nhiễm khuẩn là biện pháp hiệu quả nhất trong chăn nuôi lợn. Không nhập những con mang trùng vào đàn sạch bệnh. Để thanh toán S. suis típ 2 có thể loại con nái mang trùng, thay thế bằng đàn giống sạch bệnh, đồng thời quản lý đàn tốt và áp dụng các biện pháp an toàn sinh học.
Dùng kháng sinh cho từng cá thể hoặc bổ sung trong thức ăn ở thời kỳ nguy cơ cao có thể giảm tỷ lệ mắc lâm sàng. Những ổ dịch ở đàn lợn con đang bú có thể tiêm benethamine penicillin cho tất cả lợn con trong 5 ngày trước lứa tuổi trung bình mắc bệnh lâm sàng. Thức ăn có chứa Oxytetracyclin (400g/tấn) cho ăn 14 ngày ngay trước lúc bệnh thường xảy ra có thể khống chế được bệnh, dùng liều thấp hơn đối với lợn đã thôi bú. Thức ăn chứa trimethoprim-sulfadiazin (1/5) với tỷ lệ 500g/tấn ở 6 tuần đầu sau khi cai sữa không giảm tỷ lệ bệnh. Cho uống phòng bằng procain penicillin G hoặc hỗn hợp chlortetracyclin, sulfadimidin và procain penicillin G làm giảm tỷ lệ viêm màng não. Cho uống phenoxymethyl penicillin làm nồng độ thuốc trong huyết tương cao hơn. Phối hợp phenoxymethyl penicillin potassium (10%) với tỷ lệ 2kg/tấn thức ăn giảm đáng kể viêm màng não cho ăn trong 6 tuần từ 4 tuần đến 10 tuần tuổi.
Tiamulin pha trong nước uống với mức 180mg/lít trong 5 ngày giảm đáng kể khi gây nhiễm thực nghiệm. Những nghiên cứu vắc xin từ liên cầu khuẩn ở lợn típ 2 đang được tiến hành. Tiêm ven vi khuẩn S. suis típ 2 vô hoạt bằng focmalin đã tạo kháng thể với mức có thể phát hiện được và có khả năng chống lại bệnh khi công cường độc qua đường tiêm ven. tuy nhiên, mức kháng thể bảo hộ không thể tiêu diệt được vi khuẩn khu trú ở hạch amidan và khớp. Những thành phần khác nhau của vi khuẩn đang được kiểm tra để tìm ra phần phù hợp để chế vắc xin tiểu phần.
Bệnh viêm khớp ở Lợn do Streptococcus suis
Viêm khớp là yếu tố gây què ở lợn. Các yếu tố khác gây què ở lợn gồm liên quan đến mất cân bằng dinh dưỡng hoặc thiếu chất, những tổn thương ở chân do chấn thương, hình thành không đúng và thoái hóa xương và các thay đổi khớp. Bệnh viêm khớp do nhiễm trùng khớp và các mô bao quanh bởi vi khuẩn (Streptococcus suis, E. Coli, Staphylococcus…) và Mycoplasma. Bệnh làm ảnh hưởng đến chất lượng thân thịt khi xuất chuồng, gây thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi; đồng thời bệnh làm cho lợn tăng trọng kém và giảm số lượng lợn con sau cai sữa trong đàn.
Nguyên nhân:
Streptococcus suis là vi khuẩn gram dương, gây viêm khớp lợn cấp và mãn tính ở mọi lứa tuổi. Bệnh này thường gây ra trên lợn con 1 – 6 tuần tuổi, bệnh được phân loại như một phần của hội chứng “yếu khớp” kết hợp với viêm rốn.
Lây lan:
Streptococcus suis có thể khu trú ở amidan của gia súc khỏe, khi gặp điều kiện môi trường thuận lợi như: lợn trong tình trạng stress, nhiệt độ môi trường thay đổi thất thường làm giảm sức đề kháng lợn…lúc này dễ dàng phát bệnh. Mầm bệnh được tiết ra từ dịch âm hộ, dịch đường hô hấp và sữa lợn mẹ. Các vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể heo con bằng đường rốn, vết thương ngoài da.
Triệu chứng:
Bệnh xảy ra lẻ tẻ, tỷ lệ mắc bệnh từ 10- 20%. Bệnh thường xảy ra ở lợn 1- 6 tuần tuổi.
-Thể quá cấp tính: Gây chết lợn rất nhanh, lợn sốt rất cao, bỏ ăn, lờ đờ, suy yếu. Lợn thể hiện triệu chứng thần kinh như mất thăng bằng, liệt, đi lại khập khiểng, uốn người ra sau, run rẩy, co giật, què. Lợn có thể bị mù, điếc. Lợn có hiện tượng viêm màng não gây tụ máu não, màng não, dịch não, tủy nhiều và có màu đục.
-Thể cấp tính: Đặc trưng bởi sốt, lông da sởn lên, suy nhược và què. Khi bệnh tiến triển, lợn bệnh có thể sút cân, các khớp bị nhiễm sưng to. Một hoặc vài khớp có thể bị tổn thương, các khớp chân trước và sau, mắt cá chân thường sưng phồng lên. Bệnh làm cho lợn đau đớn không thể di chuyển được, hạn chế khả năng đi lại để bú của lợn con.
-Thể mãn tính: Lợn bệnh còi cọc và bị viêm khớp mãn tính suốt đời. Các khớp bệnh chứa nhiều dịch khớp đục với các cục sợi tơ huyết. Các màng sưng phồng, mất màu và tấy đỏ. Các mô liên kết bọc xung quanh mô dày lên và có thể chứa các ổ mủ nhỏ (áp xe). Khi bệnh trở thành mãn tính có thể làm tổn thương sụn khớp. Các bệnh tích cũng có thể thấy trong sự phát triển của các khúc xương. Các dấu hiệu nhiễm trùng toàn thân khác cũng có thể thấy trong bệnh viêm khớp do Streptococcus suis.
Phòng và trị bệnh :
-Phòng bệnh: Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, định kỳ phun thuốc sát trùng để diệt mầm bệnh trong môi trường chăn nuôi, có thể sử dụng: Vimekon (pha 100gr với 20 lít nước) hay Vime-Iodine (pha 15 – 20 ml/4 lít nước) phun khắp chuồng, định kỳ 3 – 4 tuần sử dụng 1 lần.
+Hạn chế tối đa các yếu tố làm giảm sức đề kháng của lợn: thay đổi thức ăn, môi trường nuôi đột ngột, chuyển đàn, nuôi nhốt quá chật, điều kiện vệ sinh thông thoáng kém…
+Cho lợn ăn đầy đủ dưỡng chất, thường xuyên cung cấp vào thức ăn các dưỡng chất giúp cân bằng khẩu phần, hạn chế suy dinh dưỡng như: Vime – Amino: 100gr/20kg thức ăn; Vimix plus: 100gr/120 lít nước, dùng hàng ngày; Biotin H AD: 100gr/100kg thức ăn.
-Trị bệnh: Trong bệnh viêm khớp do Streptococcus suis ở lợn con, điều trị sớm sẽ rất hiệu quả. Điều trị đúng liệu trình giúp heo hồi phục tốt hơn, có thể sử dụng một trong các loại thuốc sau liên tục 3-5 ngày. Kampico: liều 1ml/4kg thể trọng; Procain Penicillin: 1ml/10kg thể trọng; Colamp: 1ml/10kg thể trọng. Kết hợp Ketovet: 1ml/15kg thể trọng/ngày nhằm giảm đau, hạ sốt cho lợn. Nên bổ sung tiêm Vimekat: 1ml/5kg thể trọng, lặp lại sau 4 – 5 ngày giúp tăng cường trao đổi chất giúp heo mau hồi phục sau bệnh.
BỆNH LÝ LIÊN CẦU LỢN Ở NGƯỜI
Theo nghiên cứu thực hiện tại BV Bệnh nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh (1996-2005) về viêm màng não mủ ở người lớn thì S. suis là tác nhân gây bệnh hàng đầu (38,6%), kế đến mới là phế cầu S. pneumoniae (18,4%). Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhiễm trùng S. suis, Công trình nghiên cứu của BS. Nguyễn Thị Hồng Lan sơ bộ khảo sát về các đặc điểm lâm sàng của nhiễm S. suis nhập viện tại Bệnh viện bệnh nhiệt đới trong 2 năm 2005 - 2006 đã cho thấy qua 47 trường hợp viêm màng não do S. suis thì bệnh nhân thường ở độ tuổi lao động 21-60 tuổi; nam giới chiếm đến 83%. Bệnh thường gặp vào khoảng tháng 3 đến tháng 8 hàng năm. Có đến 53.2% trường hợp bệnh có tiếp xúc với heo như chăm sóc, giết mổ, chế biến thịt heo được ghi nhận. Ngoài ra có 12,8% có các vết trầy xước trên da gợi ý đây là ngõ của vi trùng xâm nhập. Tất cả 29,8% bệnh nhân có bệnh tiểu đường, nghiện rượu, bị cắt lách có nguy cơ nhiễm bệnh cao. Các biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm của bệnh nhân bị viêm màng não do S. suis tương tự như các bệnh nhân mắc bệnh viêm màng não mủ do các vi khuẩn khác. Tuy nhiên có đến 68,1% có xuất hiện triệu chứng điếc. Đây là một tỷ lệ khá cao so với tần xuất của biến chứng điếc trong các trường hợp viêm màng não khác.
Nhưng một bệnh cảnh nguy hiểm hơn của nhiễm trùng do S. suis là nhiễm trùng huyết hoặc hội chứng sốc nhiễm độc. Bệnh nhân sốt cao liên tục, tổn thương nhiều cơ quan như gan, thận và đặc biệt là có xuất hiện các tổn thương xuất huyết ngoài da kích thước không đều, nhanh chóng lan tỏa khắp cơ thể và hoại tử tương tự tổn thương của não mô cầu Neisseria meningitidis. Bệnh nhân có thể tử vong nhanh chóng như trường hợp dịch tại tỉnh An Huy, Trung Quốc vào năm 2005. S. suis nhạy cảm với kháng sinh như Cephalosporins thế hệ 3 như Ceftriaxone nên tử vong không cao ngoại trừ thể sốc nhiễm độc. Bệnh chỉ xảy ra trên những người có tiếp xúc với heo nên phòng ngừa hiện nay là tránh tiếp xúc với heo. Nếu bắt buộc vì nghề nghiệp thì nên có trang bị bảo vệ cơ thể như găng tay, nón, khẩu trang...
Một số đặc điểm về tác nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh liên cầu lợn là một loại liên cầu khuẩn, có tên là Streptococcus suis (S. suis). Vi khuẩn gram dương, hình cầu hay hình ô van, hay hình hạt đậu, kỵ khí tùy tiện. Ở động vật, vi khuẩn thường cư trú ở đường hô hấp trên đặc biệt là xoang mũi và hạch hạnh nhân. Tuy nhiên, vi khuẩn cũng có thể có trong đường tiêu hóa và đường sinh dục của lợn. Dựa vào đặc điểm của các polysaccharid ở lớp vỏ bọc vi khuẩn, người ta đã xác định vi khuẩn có 35 týp huyết thanh. Trong đó, S. suis týp II thường gây bệnh ở người. S. susi chủ yếu sống ở lợn nhà nhưng đôi khi cũng tìm thấy ở các loài lợn rừng, ngựa, chó, mèo và chim. S. suis có thể tồn tại lâu trong phân, nước, rác. Như vậy, môi trường đóng vai trò quan trọng trong quá trình truyền bệnh của vi khuẩn. S. suis dễ bị tiêu diệt bởi các chất sát khuẩn và tẩy rửa, có thể điều trị hiệu quả bằng kháng sinh.
Một số vụ dịch xảy ra do liên cầu lợn
Trường hợp nhiễm S. suis ở người đầu tiên được mô tả vào năm 1968. Đến nay, số bệnh nhân ghi nhận nhiễm phải liên cầu lợn ngày càng gia tăng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Năm1995, có 75 trường hợp bệnh do S. suis tại các nước châu Âu và 67 trường hợp tại các nước châu Á (Kay và cs., 1995), trong đó viêm màng não mủ chiếm tỷ lệ là 88%, chỉ có 12% là nhiễm trùng huyết đơn thuần, tỷ lệ tử vong ở cả hai nhóm khoảng 11 - 12%. Đến tháng 8/2005, số người nhiễm bệnh do S. suis được báo cáo lên đến 220 trường hợp bao gồm 91 bệnh nhân ở châu Âu và 129 trường hợp ở châu Á với tỷ lệ tử vong tại hai nơi này lần lượt là 13,2% và 20,2%.
Tháng 7 năm 2005, một vụ dịch ở người đươc báo cáo tại tỉnh Tứ Xuyên, miền nam Trung Quốc, (giáp với Thanh Hải, Cam Túc, Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam và Tây Tạng) với số tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lẹ tử vong cao hơn bình thường; hơn 100 ca mắc và hơn 20 trường hợp tử vong bước đầu đã được ghi nhận. Trước khi vụ dịch này, khoảng gần 200 người đã được báo cáo và tỷ lệ tử vong ước tính khoảng 10%. Chi tiết vụ dịch tương tự một vụ dịch trước đó cũng tại tỉnh Tứ Xuyên đã được đăng tải. Mọt vụ dịch nhỏ hơn xảy ra tại Hongkong xảy ra đồng thời làm ảnh hưởng đến 11 người.
Tổng số 204 người đã được báo cáo trong vụ dịch ở tỉnh Tứ Xuyên với 38 trường hợp tử vong và vụ dịch người xảy ra đồng thời với một quần thể lợn ở địa phương. Không có bằng chứng lây truyền từ người sang người; tất cả bệnh nhân nhiễm trực tiếp từ heo. Nhiều bệnh nhân và hầu hết các ca tử vong ddeuf có triệu chứng điển hình của hội chứng sốc nhiễm độc liên cầu (Streptococcal toxic shock syndrome_STSS). Đến nay, hội chứng STSS chỉ còn báo cáo trên các bênh nhân nhiễm liên cầu S. pyogenes, một thành viên khác của họ Streptococcus nhưng rất khác biệt với S. suis. Tuy nhiên, các phân lập vi khuẩn từ mẫu bệnh phẩm của người và heo đều là S. suis, và các phân lập khác có thể là gây nên bệnh điển hình của bệnh liên cầu lợn S. suis ở các lượn con (piglets). Bộ gen của S. suis được phân lập từ vụ dịch cũng như phân tích giải trình tự DNA giải thích lý do tại sao vi khuẩn đặc biệt này gây ra hội chứng STSS. Tuy nhiên, không có gen nào cho biết là trong S. pyogenes và hội chứng STSS được phát hiện trên các đối tượng có phân lập S. suis. So sánh với các phân lập khác của S. suis trên khắp thế giới, bao gồm 1 mẫu từ vụ dịch nhỏ từ tỉnh Tứ Xuyên đã giết chết 14 người trong số 25 người được báo cáo, cho thấy 2 phân lập Trung Quốc tương tự nhau và khác với các dòng nào khác.
Các thử nghiệm bổ sung sau đó cần thiết để xác định về quy mô cũng như tỷ lệ tử vong cao của vụ dịch gần đây vì phiên bản S. suis của Trung Quốc có độc lực cao hơn các dòng khác hoặc do do bản thân trường hợp bệnh nhân nhiễm và điều trị của Trung Quốc. Nghiên cứu để tìm ra các đặc tính phân lâp vi khuẩn trong vụ dịch cũng nghiên cứu chi tiết. Các thầy thuốc trên thế giới cần biết khả năng gây ra hội chứng STSS liên quan đến liên cầu S. suis khi họ gặp phải bệnh nhân với tình huống giải thích nhiễm trùng chưa thỏa đáng, đặc biệt khi tiền sử có phơi nhiễm hoặc tiếp xúc với lợn. S. suis cũng đã được định danh như là nguyên nhân hay gặp viêm màng não tại Việt Nam.
Bệnh cảnh viêm màng não do liên cầu lợn
Người bệnh sốt cao, đau đầu, buồn nôn, nôn, ù tai, điếc, cứng gáy, rối loạn tri giác… xuất huyết đa dạng ở một số nơi trên cơ thể. Một số trường hợp xuất hiện các triệu chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc tiêu hóa: sốt, đi cầu nhiều lần, phân lỏng, cơ thể lạnh, run… trước khi có biểu hiện của viêm màng não.
Trường hợp nặng: Sốc nhiễm độc, trụy mạch, cơ thể lạnh, tụt huyết áp, nhiễm khuẩn huyết cấp tính, rối loạn đông máu nặng, suy hô hấp, suy đa phủ tạng… hôn mê và tử vong.
Chẩn đoán xác định:
Tìm thấy S. suis gây bệnh (thường là S. suis típ II) khi nuôi cấy bệnh phẩm (máu người bệnh hoặc các mô, tổ chức bị tổn thương) hoặc tiến hành làm xét nghiệm huyết thanh học hoặc làm phương pháp sinh học phân tử (PCR). Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh tương tự viêm màng não do não mô cầu, viêm màng não do Haemophilus Influenzae, sốt xuất huyết thể nặng.
Xét nghiệm cần làm:
- Loại mẫu bệnh phẩm: máu người bệnh, các mô, tổ chức bị tổn thương.
- Phương pháp xét nghiệm:
+ Phân lập liên cầu: Cấy máu, lấy khuẩn lạc nhuộm soi thấy hình ảnh liên cầu gram (+), tiếp đó quan sát hiện tượng dung huyết alpha và beta trên môi trường thạch máu cừu và ngựa.
+ Thực hiện phản ứng kháng thể huỳnh quang phát hiện vi khuẩn tại các mô bị nhiễm.
+ Làm phản ứng PCR là phương pháp chính xác nhất.
Nguồn truyền nhiễm
- Ổ chứa: Lợn nhà, có thể cả lợn rừng, ngựa, chó, mèo và chim. Các véc-tơ có khả năng truyền bệnh bao gồm ruồi, gián, chuột.
- Thời gian ủ bệnh: Thời gian ủ bệnh ngắn, chỉ từ vài giờ đến 3 ngày.
- Thời kỳ lây truyền: Hiện nay chưa được biết đầy đủ. Khả năng khi lợn bị bệnh, vi khuẩn S.suis biến đổi và tăng độc tính mới lây nhiễm cho người. Chưa thấy có sự lây truyền bệnh từ người sang người.
Phương thức lây truyền
- Streptococcus suis có thể lây truyền qua người khi tiếp xúc với lợn bệnh hay lợn mang vi khuẩn qua các tổn thương nhỏ, trầy xước trên da của những người giết mổ, chế biến và ăn thịt lợn bệnh hay lợn mang vi khuẩn nấu không chín. Hiện nay, chưa có bằng chứng bệnh liên cầu khuẩn có thể lây trực tiếp từ người sang người.
- Lợn mang vi khuẩn là nguồn lây nhiễm chính. Bệnh có thể truyền qua đường hô hấp, các chất bài tiết, máu của lợn bệnh, lây lan thông qua tiếp xúc trực tiếp hoặc lây qua kim tiêm nhiễm khuẩn. Vi khuẩn có thể vẫn có mặt ở hạch hạnh nhân của lợn sau khi đã được điều trị bằng kháng sinh penicillin. Lợn nái có thể mang vi khuẩn trong tử cung và âm đạo. Lợn có thể bị nhiễm vi khuẩn ở bất kỳ tuổi nào. Khả năng nhiễm và gây bệnh của vi khuẩn ở lợn con cao hơn ở lợn trưởng thành. Các đàn lợn con trong trạng thái chịu stress và tiếp xúc với nguồn bệnh sẽ có khả năng phát bệnh cao.
- Phân, chất độn chuồng, các loại thức ăn và nước uống trong chuồng nuôi có thể trở thành nguồn bệnh thứ cấp. Các động vật khác có khả năng truyền bệnh bao gồm ruồi, gián, chuột.
Tính cảm nhiễm và miễn dịch
- Ở lợn: Có thể bị nhiễm vi khuẩn ở bất kỳ tuổi nào. Khả năng nhiễm và gây bệnh của vi khuẩn ở lợn con cao hơn ở lợn trưởng thành.
- Ở người: Hiện nay chưa được biết đầy đủ.
- Những người có nguy cơ nhiễm bệnh cao: người làm việc ở trại chăn nuôi lợn, người giết mổ gia súc, cán bộ thú y, người ăn tiết canh lợn hoặc ăn thịt lợn ốm chết.
*Người có nguy cơ lây nhiễm và phát bệnh khi tiếp xúc với lợn bệnh hoặc các sản phẩm từ lợn bệnh. Biểu hiện lâm sàng chính là: viêm màng não, xuất huyết, viêm phổi, viêm cơ tim và viêm khớp. Những người bị bệnh nặng có thể tử vong do độc tố vi khuẩn gây sốc nhiễm khuẩn, viêm nội tâm mạc, suy đa phủ tạng, nhiễm khuẩn huyết… Tỷ lệ chết có thể tới 7%. Bệnh liên cầu lợn thuộc nhóm B trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, ICD-10 B95: Streptococcus suis. * Theo một nghiên cứu gần đây của BV Bệnh nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh cho thấy bệnh này có khuynh hướng xảy ra vào mùa hè nắng nóng, 58 bệnh nhân (81%) là nam giới. Phần lớn bệnh nhân là nông dân, 38% bệnh nhân có tiền sử tiếp xúc với lợn hay thịt lợn, tuy nhiên chỉ có 6 bệnh nhân (8%) có tổn thương da nghi ngờ. 69 bệnh nhân (96%) biểu hiện bệnh cảnh viêm màng não như: sốt, nhức đầu, ói, cổ cứng, rối loạn tri giác là những triệu chứng thường gặp. 68% trường hợp viêm màng não mủ có triệu chứng ù tai, điếc. Một bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết bị sốc do nhiễm độc tố liên cầu. Sau 10 – 14 ngày dùng kháng sinh ceftriaxon, hầu hết bệnh nhân đều hồi phục. Tất cả các chủng vi khuẩn phân lập được còn nhạy cảm với penicillin và ceftriaxon. |
Các biện pháp phòng, chống dịch
- Biện pháp phòng bệnh:
-Đối với người giết mổ lợn phải tuân theo các quy định: Không giết mổ lợn bị bệnh; không được sử dụng thịt lợn chết làm thức ăn cho động vật khác và phải xử lý lợn bị bệnh chết triệt để, tránh gây nhiễm ra môi trường và cộng đồng; mang các dụng cụ bảo vệ cá nhân cần thiết (găng tay, khẩu trang, kính, mũ…), bảo đảm các vết xước, vết thương không tiếp xúc với lợn hay các sản phẩm của lợn; nơi giết mổ phải bảo đảm vệ sinh môi trường sạch sẽ, tách biệt với khu chế biến thức ăn.
-Đối với người mua bán thịt lợn: Không mua, bán lợn bị bệnh; không mua bán lợn, thịt lợn không rõ nguồn gốc; chỉ mua lợn, thịt lợn có nguồn gốc, không bị bệnh và có dấu hiệu kiểm dịch của cơ quan thú y.
-Đối với người tiêu dùng: Không ăn thịt lợn sống, không ăn tiết canh, nội tạng lợn chưa được nấu chín, không ăn thịt lợn và sản phẩm từ lợn không rõ nguồn gốc; không tiếp xúc với sản phẩm từ lợn còn sống khi tay có vết xây xước, trừ khi mang găng bảo vệ.
-Đối với người chế biến thức ăn: Giữ cho khu vực chế biến thức ăn sạch sẽ và rửa tay sau khi thao tác; khi lưu trữ, bảo quản thịt sống phải tách biệt với nơi bảo quản thịt đã qua chế biến hoặc sản phẩm ăn sẵn để tránh lây nhiễm bệnh; không dùng dụng cụ chế biến thịt sống để chế biến thịt (dao, thớt); rửa tay sạch bằng xà phòng sau khi chế biến thịt; sản phẩm phải được nấu chín kỹ trước khi ăn…
- Biện pháp chống dịch: Khi nhận thấy có dịch liên cầu khuẩn xảy ra thì phải xử lý như xử lý một ổ dịch truyền nhiễm:
+Tăng cường giám sát phát hiện sớm các trường hợp bị nghi nhiễm liên cầu lợn, nên đưa ngay đến bệnh viện để điều trị kịp thời, đặc biệt chú ý giám sát những đối tượng có tiếp xúc gần với lợn bị bệnh như người chăn nuôi, giết mổ và buôn bán lợn.
+Khoanh vùng, phun khử trùng môi trường vùng có dịch bằng chloramin B 3-5%.
+Nghiêm cấm hoàn toàn việc di chuyển và giết mổ lợn. Không giết mổ, vận chuyển lợn bệnh, lợn chết phải tiêu hủy đúng cách.
+Lợn ốm, chết phải chôn, đổ thuốc sát khuẩn và tiêu hủy. Chuồng trại và môi trường chăn nuôi phải phun thuốc sát khuẩn, khử khuẩn. Để trống chuồng 2 tuần mới nuôi lợn trở lại.
- Nguyên tắc điều trị: Lưu ý phát hiện sớm các trường hợp có biểu hiện viêm màng não và có tiếp xúc với lợn bị bệnh, chẩn đoán và điều trị kịp thời nhằm giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng.
+Điều trị kháng sinh đặc hiệu penicillin liều cao: uống, tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch, thường phải điều trị trên 10 ngày. Có thể dùng các kháng sinh khác cũng hiệu quả như: ampicillin, erythromycin hoặc nhóm cephalosporin.
+Điều trị triệu chứng và áp dụng các biện pháp hồi sức tích cực nếu có biến chứng nặng.
+Lọc máu nếu có điều kiện.
- Kiểm dịch y tế biên giới: Thực hiện nghiêm ngặt công tác kiểm dịch quốc tế khi xuất, nhập lợn qua biên giới để không đưa mầm bệnh từ nước ngoài xâm nhập vào nước ta và ngược lại.
Tài liệu tham khảo
1.Trần Thanh Dương (2009). Bệnh liên cầu lợn và cách phòng, chống. Báo Sức khỏe và đời sống, số 72, ngày 6/5/2010.
2.http://carehub.vn/ Bệnh do nhiễm trùng cầu trùng heo Streptococcus suis. Báo Khoa học & Phổ thông.
4.http://huapro.vn/ Bệnh liên cầu khuẩn ở lợn (Streptococcus suis).
5.Sriskandan S, Slater JD (2006). "Invasive Disease and Toxic Shock due to Zoonotic Streptococcus suis: An Emerging Infection in the East?". PLoS Med 3 (5): e187.
6.Huang YT, Teng LJ, Ho SW, Hsueh PR (2005). "Streptococcus suis infection". J Microbiol Immunol Infect38 (5): 306–13.
7.Tang J, et al. (2006). "Streptococcal Toxic Shock Syndrome Caused by Streptococcus suis Serotype 2". PLoS Med 3 (5): e151.
9.Mai NTH, Hoa NT, Nga TVT, et al. (2008). "Streptococcus suis meningitis in adults in Vietnam". Clin Infect Dis 46 (5): 659–667.