1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, chiến lược phòng chống sốt rét (1991-2011) đã đạt những thành tựu đáng kể làm giảm chết, giảm mắc và không để dịch sốt rét xảy ra. Từ năm 2012 đến nay, nước ta chuyển sang chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét nhưng “điểm nóng” vẫn là miền Trung-Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ chiếm trên 90% số mắc và chết sốt rét cả nước, trong đó Gia Lai xếp đầu 10 tỉnh sốt rét cao nhất nướcvới hàng trăm công trình thủy điện, thủy lợi lớn nhỏ nhưng ảnh hưởng tới sốt rét ở mức độ nào lại ít được quan tâm nghiên cứu. Cùng với sự thay đổi môi trường sinh cảnh, tác động biến đổi khí hậu có thể làm tăng hoặc giảm các chỉ số sốt rét, trong đó tương quan thời tiết (nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa) với chỉ số sốt rét (bệnh nhân sốt rét, ký sinh trùng sốt rét) tại một số khu vực thủy điện, thủy lợi tỉnh Gia Lai sẽ cung cấp những dữ liệu khoa học về thay đổi mùa truyền bệnh sốt rét địa phương và làm cơ sở đề xuất biện pháp phòng chống sốt rét thích hợp cho cộng đồng khu vực thủy điện, thủy lợi cũng như các vùng tương tự.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu được tiến hành 2 năm (2014-2016), tại các vùng sốt rét lưu hành khu vực thủy điện Sê San (Tây Nam tỉnh Gia Lai): xã Ia Khai (huyện Ia Grai), Ia Kreng (huyện Chư Păh)và khu vực thủy điện, thủy lợi Krong Pa (Đông Nam tỉnh Gia Lai): 2 xã Chư Gu và Ia Mlăh.
- Phương pháp điều tra cắt ngang mô tảđánh giá tác động của biến đổi khí hậu thông qua mối tương quan các yếu tố thời tiết (nhiệt độ,ẩm độ, lượng mưa) với bệnh nhân sốt rét(BNSR) và ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) theo mỗi giai đoạn 5 năm trong 15 năm (2001-2015) tạicác khu vực thủy điện, thủy lợi thuộc phạm vi nghiên cứu.

Người dân phải vào rừng làm rẫy cách xa buôn làng hàng chục cây số và ngủ lại trong những căn chòi rẫy được che chắn tạm bợ
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sự biến đổi khí hậu tỉnh Gia Lai cũng như Việt Nam nằm trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu, đặc biệt Gia Lai có hai mùa rõ rệt trong năm (mưa và khô) nhưng khác biệt giữa 2 vùng: Tây Nam tỉnh Gia Lai (Tây Trường Sơn) thuộc khí hậu gió mùa cao nguyên, mùa mưa từ tháng 5-10 và mùa khô từ tháng 11-4 năm sau; Đông Nam tỉnh Gia Lai (Tây Trường Sơn) chịu ảnh hưởng khí hậu ven biển miền Trung, mùa mưa muộn hơn từ tháng 8-11 và mùa khô từ tháng 12-7 năm sau. Ẩm độ trung bình năm (80-85%); nhiệt độ trung bình năm (22-250C); lượng mưa trung bình năm 2.200-2.500mm (Tây Trường Sơn) và 1.200-1.750mm (Đông Trường Sơn).
3.1. Tác động biến đổi khí hậu đến mùa truyền bệnh sốt rét trong năm
Tuy nhiên dưới tác động của biến đổi khí hậu, các yếu tố thời tiết bao gồm lượng mưa(LM), nhiệt độ (NĐ) và ẩm độ(ÂĐ) thay đổi theo từng giai đoạn 5 năm trong vòng 15 năm gần đây (2001-2015) ảnh hưởng đến trung gian truyền bệnh (muỗi sốt rét) cũng như tác nhân gây bệnh (ký sinh trùng sốt rét) và chi phối mùa truyền bệnh sốt rét trong năm.
3.1.1. Tại khu vực thủy điện Sê San

Hình 3.1. Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter ở thủy điện Sê San 2006-2010.

Hình 3.2. Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter ở thủy điện Sê San 2011-2015
Theo Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter ở khu vực thủy điện Sê Sankhông thấy biến đổi về mùanhưng giai đoạn 2006-2010 (Hình 3.1) cóthay đổi về lượng mưa trung bình cao nhất vào tháng 8 (giữa mùa mưa) > 500 mm và thấp nhất tháng 6 (đầu mùa mưa) 150 mm, trong khi giai đoạn 2011-2015 (Hình 3.2) lượng mưa trung bình cao nhất tháng 8 (giữa mùa mưa) > 400 mm và thấp nhất vào tháng 5 (đầu mùa mưa) và tháng 10 (cuối mùa mưa).
- Khu vực thủy điện Sê San tại huyện Ia Grai: 10 năm gần đây (2006-2015) lượng mưatrung bình > 49,1mm, mỗi năm tăng trung bình4,9mm; nhiệt độ trung bình > 0,50C, mỗi năm nền nhiệt trung bình tăng 0,050C;ẩm độ trung bình giảm 3,5%, mỗi năm giảm khoảng 0,35%/.
- Khu vực thủy điện Sê San tại huyện Chư Păh: 10 năm gần đây lượng mưa > 308,4mm, mỗi năm tăng khoảng 30,8mm; nhiệt độ trung bình > 0,20C, mỗi năm nền nhiệt trung bình tăng 0,020C; ẩm độ trung bình tăng 3,2%, mỗi năm trung bình tăng khoảng 0,3%.
3.1.2. Tại khu vực thủy điện, thủy lợi Krong Pa

Hình 3.3. Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter ở Krông Pa giai đoạn 2006-2010

Hình 3.4. Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter ở Krông Pa giai đoạn 2011-2015
Theo Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter (Hình 3.3 & 3.4), Krông Pa không biến đổi về mùa nhưng thay đổi về lượng mưa trung bình tháng 9 (cuối mùa mưa): 300mm nước và tháng 6 (đầu mùa mưa): 50mm nước; trong khi 2010-2015 lượng mưa trung bình tháng 9 (giữa mưa) cao nhất, tháng 5-6 (đầu mưa) và 10(cuối mưa) thấp nhất. Do tác động của biến đổi khí hậu 10 năm gần đây lượng mưa tăng giảm thất thường, nhiệt độ trung bình năm > 0,30C, mỗi năm nền nhiệt trung bình tăng 0,030C; ẩm độ trung bình tăng 0,8%, mỗi năm tăng 0,08%.
Như vậy, biến đổi khí hậu khu vực nghiên cứu tác động các yếu tố thời tiết, nhất là lượng mưa và ẩm độ làm mùa bệnh sốt rét có xu hướng kéo dài 1-2 tháng đến đầu mùa khô năm sau.
3.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến các chỉ số mắc sốt rét
3.2.1. Tại khu vực thủy điện Sê San
- Khu vực thủy điện Sê San tại Ia Grai: Diễn biến BNSR 17 năm (1999-2015) giảm dần qua các năm phù hợp với biến động thời tiêt (Biểu đồ 3.1); đặc biệt 10 năm sau (2006-2015) tổng lượng mưa thấp nên số mắc sốt rét giảm thấp như 2014 độ ẩm trung bình (80,2%) số mắc sốt rét (129 ca), 2015 lượng mưa (1634.1mm) và độ ẩm trung bình (80,1%) số mắc sốt rét (57 ca).

Biểu đồ 3.1. Diễn biến các yếu tố thời tiết và bệnh sốt rét 1999-2015 ở Ia Grai
Liên quan LM, NĐ và BNSR theo tháng ở Ia Grai 2006-2010 (Biểu đồ 3.2) BNSR tăng và đạt đỉnh tháng 9-11 (giữa và cuối mùa mưa), sau đó bắt đầu giảm vào tháng 12 (mùa khô).

Biểu đồ 3.2. Liên quan lượng mưa, nhiệt độ và bệnh nhân sốt rét theo tháng trong năm ở Ia Grai giai đoạn 2006 – 2010

Biểu đồ 3.3. Liên quan giữa lượng mưa, nhiệt độ và BNSR theo tháng trong năm ở Ia Grai giai đoạn 2011-2015
Liên quan LM, NĐ và BNSR Ia Grai 2011-2015 (Biểu đồ 3.3) có 2 đỉnh: đỉnh 1 giữa mùa mưa (tháng 7) thấp hơn đỉnh 2 cuối mùa mưa (tháng 10-11) và BNSR vẫn duy trì ở mức độ cao đến các tháng đầu mùa khô (tháng 12-1).
- Khu vực thủy điện Sê San tại huyện Chư Păh:

Biểu đồ 3.4. Diễn biến các yếu tố thời tiết và sốt rét 2002-2015 ở Chư Pah
Diễn biến các yếu tố thời tiết và sốt rét 2002-2015 ở Chư Pah (Biểu đồ 3.2) cho thấy số mắc sốt rét cũng có xu hướng thuyên giảm rõ rệt và chịu nhiều ảnh hưởng bởi lượng mưa: năm 2008 tổng lượng mưa thấp (1.588.1mm) thì số ca mắc sốt rét thấp (81 ca) so với các năm gần đó;năm 2015 tổng lượng mưa thấp (1.331.8mm) và độ ẩm trung bình năm thấp (74,4%) nên số ca mắc sốt rét thấp nhất (14 ca) so với các năm trước đó.
3.2.2. Khu vực thủy điện, thủy lợi Krong Pa
- Nằm ở triền Đông Trường Sơn, khu vực thủy điện, thủy lợi Krong Pa chịu tác động của 2 vùng khí hậu (Tây Nguyên và duyên hải miền Trung) nên mùa mưa đến muộn hơn và kéo dài hơn so với Sê San. Giai đoạn 2001-2005: năm 2000 tổng lượng mưa cao (1.292,3mm) và độ ẩm trung bình năm cao (83,4%), số BNSR cao nhất (2.252 ca); năm 2004 tổng lượng mưa thấp hơn (944,8mm) và độ ẩm trung bình năm thấp hơn (71,9%), số BNSR thấp hơn (1.041 ca);năm 2005 tổng lượng mưa (1.218,5mm) và độ ẩm (74,6%), số BNSR (918 ca). 2006-2010: năm 2007-2008 từ tháng 1-6 có nhiều tháng lượng mưa < 100mm, thời tiết khô hạn nên số BNSR thấp 2007 (475 ca) và 2008(325 ca) so với các năm gần đó. uy nhiên, 2011-2015 sốt rét Krong Pa tăng cao dai dẳng (Biểu đồ 3.3) do biến thiên các yếu tố thờitiết so với 2006-2010 (mưa ít, khô hạn)nên BNSR thấp hơn, khi mưa nhiều và độ ẩm cao thì sốt rét gia tăng và bùng phát trở lại.

Biểu đồ 3.5. Diễn biến các yếu tố thời tiết và sốt rét ở Krông Pa1999-2015
- Tác động biến đổi khí hậu với chỉ số mắc sốt rét tại Krông Pa cũng dần lộ diện trong 15 năm trở lại đây(2001-2015), liên quan chặt chẽ với 2 yếu tố lượng mưa và nhiệt độ trung bình tháng giai đoạn 2006-2010 có số mắc sốt rét giảm dần từ tháng 12 đến 1 (đầu mùa khô) đến tháng 4 (cuối mùa khô), bắt đầu tăng vào tháng 5-6 (đầu mùa mưa), tăng mạnh từ tháng 9 (giữa mùa mưa) và đạt đỉnh bệnh cao nhất vào tháng 11 (cuối mùa mưa), sau đó bắt đầu giảm xuống ở tháng 12 (giao thời 2 mùa mưa khô).

Biểu đồ 3.6. Liên quan giữa lượng mưa, nhiệt độ và BNSR theo tháng trong năm ở Krông Pa giai đoạn 2006-2010.
Giai đoạn 2006-2010 (Biểu đồ 3.6), BNSR giảm dần từ đầu mùa khô (tháng 12-1) đến cuối mùa khô (tháng 4), bắt đầu tăng vào đầu mùa mưa (tháng 5-6), tăng mạnh từ tháng 9 (giữa mưa) và đạt đỉnh cao nhất vào tháng 11 (cuối mưa) và bắt đầu giảm vào tháng 12 (đầu khô).

Biểu đồ 3.7. Liên quan yếu tố thời tiết và BNSR Krông Pa (2011-2015).
Giai đoạn 2011-2015(Biểu đồ 3.7), BNSR tăng hơn nhiều giai đoạn trước,trong nămBNSR giảm dần từ tháng 12 (đầu khô) đến 4 (cuối khô) và có 2 đỉnh: đỉnh 1 thấp hơn vào tháng 7 (đầu mưa), sau đó nhanh chóng tăng từ tháng 9 (giữa mưa) tới 11 (cuối mưa). Đặc biệt, BNSR vẫn duy trì ở mức độ cao ở từ tháng 12 đến tháng 1-2 năm sau (đầu khô).
3.3. Tương quan giữa các yếu tố thời tiết với chỉ số mắc sốt rét
Tương quan giữa các yếu tố thời tiết (nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa) với bệnh nhân sốt rét (BNSR) và ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) là những chỉ số mắc sốt rét tại các khu vực thủy điện, thủy lợi thuộc phạm vi nghiên cứu.
3.3.1. Khu vực thủy điện Sê San tại huyện Ia Grai
- Tương quan các yếu tố thời tiết và chỉ số mắc sốt rét ở Ia Grai 1999-2005:
Bảng 3.1. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và BNSR ở Ia Grai (1999-2005)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
BNSR và LM | 0,6; p <0,01 | 0,332 | BN = 63,7 + 0,189 (LM); p <0,01 |
BNSR và ÂĐ | 0,5; p <0,01 | 0,292 | BN = – 273,9 + 4,39 (AĐ); p <0,01 |
BNSR và NĐ | 0,1; p >0,05 | 0,011 | BN = 187,3 – 4,075 (NĐ); p >0,05 |
BN và 3 yếu tố | 0,6; p <0,01 | 0,361 | BN = – 93,2 + 0,129 (LM) + 2,623 (AĐ) – 0,168 (NĐ) |
+ BNSR (Bảng 3.1): tương quan cao với LM (R = 0,6), trung bình ÂĐ(R = 0,5)và thấpvới NĐ (R = 0,1). Tương quan BNSR với 3 yếu tố chi phối > 36% (R2 = 0,361) BNSR huyện Ia Grai, trong đó LM có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) và đóng vai trò quyết định.
Bảng 3.2. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và KSTSR ở Ia Grai (1999-2005)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
KSTSR và LM | 0,4; p <0,01 | 0,196 | KSTSR = 18,6 + 0,078 (LM); p <0,01 |
KSTSR và ÂĐ | 0,4; p <0,01 | 0,181 | KSTSR = – 124,9 + 1,861 (AĐ); p <0,01 |
KSTSR và NĐ | 0,2; p >0,05 | 0,029 | KSTSR = 109,6 – 3,493 (NĐ); p >0,05 |
KSTSR và 3 yếu tố | 0,5; p <0,01 | 0,225 | KSTSR = 25,8 + 0,061 (LM) + 0,54 (AĐ) – 2,272 (NĐ) |
+ KSTSR (Bảng 3.2): tương quan trung bình với LMvàÂĐ(R = 0,4), tương quan thấp với NĐ (R = 0,2). Tương quan KSTSR với 3 yếu tố chi phối > 22% (R2 = 0,225) KSTSR huyện Ia Grai, trong đó LM có ý nghĩa thống kê (p <0,05) có vai trò quyết định.
- Tương quan các yếu tố thời tiết và chỉ số mắc sốt rét ở Ia Grai 2006-2010:
Bảng 3.3. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và BNSR ở Ia Grai (2006-2010)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
BNSR và LM | 0,6; p <0,01 | 0,367 | BN = 16,5 + 0,124 (LM); p <0,01 |
BNSR và ÂĐ | 0,5; p <0,01 | 0,282 | BN = – 22,3 + 3,026 (AĐ); p <0,01 |
BNSR và NĐ | 0,1; p >0,05 | 0,019 | BN = 108,9 – 3,154 (NĐ); p >0,05 |
BN và 3 yếu tố | 0,6; p <0,01 | 0,37 | BN = – 54,2 + 0,104 (LM) + 0,703 (AĐ) + 0,717 (NĐ) |
+ BNSR (Bảng 3.3): tương quan cao với LM (R = 0,6), trung bình với ÂĐ(R = 0,5) và thấpvới NĐ (R = 0,1). Sự thay đổi 3 yếu tố chi phối 37% (R2 = 0,37) BNSR huyện Ia Grai, trong đó lượng mưa có ý nghĩa thống kê (p <0,05) đóng vai trò quyết định.
Bảng 3.4. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và KSTSR ở Ia Grai (2006-2010)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
KSTSR và LM | 0,4; p <0,01 | 0,196 | KSTSR = 18,6 + 0,078 (LM); p <0,01 |
KSTSR và ÂĐ | 0,4; p <0,01 | 0,181 | KSTSR = – 124,9 + 1,861 (AĐ); p <0,01 |
KSTSR và NĐ | 0,2; p >0,05 | 0,029 | KSTSR = 109,6 – 3,493 (NĐ); p >0,05 |
KSTSR và 3 yếu tố | 0,5; p <0,01 | 0,225 | BN = 25,8 + 0,061 (LM) + 0,54 (AĐ) – 2,272 (NĐ) |
+ KSTSR (Bảng 3.4.): tương quan trung bình với LM vàÂĐ cùng(R = 0,4), tương quan thấp với NĐ (R = 0,2). Thay đổi của 3 yếu tố chi phối > 20% (R2 = 0,225) KSTSR huyện Ia Grai, trong đó lượng mưa có ý nghĩa thống kê (p = 0,01) và đóng vai trò quyết định.
- Tương quan các yếu tố thời tiết và chỉ số mắc sốt rét ở Ia Grai 2011-2015:
Bảng 3.5. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và BNSR ở Ia Grai (2011-2015)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
BNSR và LM | 0,3; p <0,05 | 0,08 | BN = 14,9 + 0,043 (LM); p <0,05 |
BNSR và ÂĐ | 0,3; p <0,01 | 0,119 | BN = – 89,1 + 1,374 (AĐ); p <0,01 |
BNSR và NĐ | 0,3; p <0,05 | 0,088 | BN = 135 – 4,969 (NĐ); p <0,05 |
BN và 3 yếu tố | 0,4; p <0,05 | 0,169 | BN = 84,8 + 0,042 (LM) + 0,339 (AĐ)–4,339 (NĐ) |
+ BNSR (Bảng 3.5): tương quan với cả 3 yếu tố chi phối khoảng 17% (R2 = 0,169) BNSR Ia Grai nhưng không yếu tố nào có ý nghĩa thống kê (p >0,05)vàcó vai trò quyết định.
Bảng 3.6. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và KSTSR ở Ia Grai (2011-2015)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
KSTSR và LM | 0,3; p <0,05 | 0,076 | KSTSR = 13,7 + 0,037 (LM); p <0,05 |
KSTSR và ÂĐ | 0,4; p <0,01 | 0,126 | KSTSR = – 81,4 + 1,253 (AĐ); p <0,01 |
KSTSR và NĐ | 0,3; p <0,05 | 0,094 | KSTSR = 122,9 – 2,447 (NĐ); p <0,05 |
KSTSR và 3 yếu tố | 0,4; p <0,05 | 0,173 | BN = 68,7 + 0,033 (LM) + 0,397 (AĐ) – 3,857 (NĐ) |
+ KSTSR (Bảng 3.6): tương quan trung bình vớiÂĐ (R = 0,4), tương quan thấp với LM vàNĐ(R = 0,3).Sự thay đổi của cả 3 yếu tố thay đổi >17%(R2 = 0,173) KSTSR huyện Ia Grai nhưng không yếu tố nào có ý nghĩa thống kê (p >0,05) và không đóng vai trò quyết định.
3.3.2. Khu vực thủy điện Sê San tại huyệnChư Pah
- Tương quan yếu tố thời tiết và chỉ số mắc sốt rét ở Chư Păh 2001-2005:
Bảng 3.7. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và BNSR ở Chư Pah (2001-2005)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
BNSR và LM | 0,4; p <0,05 | 0,127 | BN = 26,1 + 0,044 (LM); p <0,05 |
BNSR và ÂĐ | 0,4; p <0,05 | 0,136 | BN = – 53,3 + 1,115 (AĐ); p <0,05 |
BNSR và NĐ | 0,2; p >0,05 | 0,025 | BN = 63,8 – 1,345 (NĐ); p >0,05 |
BN và 3 yếu tố | 0,4; p <0,05 | 0,149 | BN = – 29,7 + 0,021 (LM) + 0,732 (AĐ) + 0,117 (NĐ) |
+ BNSR (Bảng 3.7): tương quan trung bình LM và ÂĐ (R = 0,4), tương quan thấp NĐ (R = 0,2). Tương quan chung cả 3 yếu tố chi phối 15% (R2 = 0,149) BNSR huyện Chư Pah nhưng không yếu tố nào có ý nghĩa thống kê (p >0,05) vàkhông đóng vai trò quyết định.
Bảng 3.8. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và KSTSRChư Pah (2001-2005)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
KSTSR và LM | 0,4; p <0,01 | 0,148 | KSTSR = 5,8 + 0,023 (LM); p <0,01 |
KSTSR và ÂĐ | 0,4; p <0,05 | 0,127 | KSTSR = – 31 + 0,522 (AĐ); p <0,05 |
KSTSR và NĐ | 0,2; p >0,05 | 0,053 | KSTSR = 31,4 – 0,956 (NĐ); p >0,05 |
KSTSR và 3 yếu tố | 0,4; p >0,05 | 0,167 | KSTSR = 10,8 + 0,018 (LM) + 0,094 (AĐ) – 4,91 (NĐ) |
+ KSTSR (Bảng 3.8):tương quan trung bình LM vàÂĐ (R = 0,4), tương quan thấp NĐ (R = 0,2). Tương quan chung cả 3 yếu tố chi phối 17% (R2 = 0,149) KSTSR huyện Chư Pah nhưng không yếu tố nào có ý nghĩa thống kê (p >0,05) và khôngđóng vai trò quyết định.
- Tương quan yếu tố thời tiết và chỉ số mắc sốt rét ở Chư Păh 2006-2010:
Bảng 3.9. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và BNSR Chư Pah (2006-2010)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
BNSR và LM | 0,6; p <0,01 | 0,309 | BN = 6,6 + 0,033 (LM); p <0,01 |
BNSR và ÂĐ | 0,4; p <0,01 | 0,15 | BN = – 28 + 0,511 (AĐ); p <0,01 |
BNSR và NĐ | 0,1; p >0,05 | 0,005 | BN = 19,5 – 0,337 (NĐ); p >0,05 |
BN và 3 yếu tố | 0,6; p <0,01 | 0,311 | BN = 10,9 + 0,033 (LM) + 0,005 (AĐ) – 0,198 (NĐ) |
+ BNSR (Bảng 3.9): tương quan cao LM (R = 0,6), trung bình ÂĐ (R = 0,4) vàthấp vớiNĐ (R = 0,1). Tương quan chung cả 3 yếu tố chi phối hơn 31% (R2 = 0,311) BNSR huyện Chư Pah nhưng chỉ LM có ý nghĩa thống kê (p <0,01) và đóng vai trò quyết định.
Bảng 3.10. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và KSTSRChư Pah (2006-2010)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
KSTSR và LM | 0,5; p <0,01 | 0,28 | KSTSR = 0,638 + 0,023 (LM); p <0,01 |
KSTSR và ÂĐ | 0,3; p <0,05 | 0,11 | KSTSR = – 20 + 0,31 (AĐ); p <0,05 |
KSTSR và NĐ | 0,02; p >0,05 | 0,001 | KSTSR = 5,5 – 0,069 (NĐ); p >0,05 |
KSTSR và 3 yếu tố | 0,5; p <0,01 | 0,282 | KSTSR = 7,1 + 0,024 (LM) – 0,056 (AĐ) – 0,103 (NĐ) |
+ KSTSR (Bảng 3.10):tương quan trung bình LM (R = 0,5), tương quan thấp ÂĐ (R = 0,3)và nhiệt độ (R = 0,02). Tương quan chung 3 yếu tố chi phối> 28% (R2 = 0,282) KSTSR huyện Chư Pah nhưng chỉ LM có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) và đóng vai trò quyết định.
- Tương quan yếu tố thời tiết và chỉ số mắc sốt rét ở Chư Păh 2011-2015
Bảng 3.11. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và BNSR Chư Pah (2011-2015)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
BNSR và LM | 0,2; p >0,05 | 0,057 | BN = 3,1 + 0,007 (LM); p >0,05 |
BNSR và ÂĐ | 0,3; p <0,05 | 0,084 | BN = – 10,6 + 0,181 (AĐ); p <0,05 |
BNSR và NĐ | 0,1; p >0,05 | 0,022 | BN = 10,4 – 0,249 (NĐ); p >0,05 |
BN và 3 yếu tố | 0,3; p >0,05 | 0,088 | BN = – 6,2 + 0,002 (LM) + 0,138 (AĐ)–0,056 (NĐ) |
+ BNSR (Bảng 3.11): tương quan thấp với LM (R = 0,2),ÂĐ (R = 0,3) vàNĐ(R = 0,1). Tương quan chung của cả 3 yếu tố này dẫn đến gần 9% (R2 = 0,088) BNSR huyện Chư Pah nhưngchỉ ÂĐ có ý nghĩa thống kê (P <0,05) và không yếu tố nào đóng vai trò quyết định.
Bảng 3.12. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và KSTSRChư Pah (2011-2015)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
KSTSR và LM | 0,3; p <0,05 | 0,076 | KSTSR = 2,5 + 0,007 (LM); p <0,05 |
KSTSR và ÂĐ | 0,3; p <0,05 | 0,104 | KSTSR = – 11,4 + 0,185 (AĐ); p <0,05 |
KSTSR và NĐ | 02; p >0,05 | 0,022 | KSTSR = 9 – 0,217 (NĐ); p >0,05 |
KSTSR và 3 yếu tố | 0,3; p >0,05 | 0,112 | KSTSR = –5,7 + 0,003(LM) + 0,131(AĐ) – 0,075(NĐ) |
+ KSTSR (Bảng 3.12):tương quan thấp với LM (R = 0,3), ÂĐ (R = 0,2) vàNĐ(R = 0,1). Tương quan chung cả 3 yếu tố chi phối 11% (R2 = 0,112) KSTSR huyện Chư Pah nhưng không yếu tố nào có ý nghĩa thống kê (p >0,05) và không có yếu tố nào đóng vai trò quyết định.
3.3.3. Khu vực thủy điện, thủy lợi Krông Pa
- Tương quan yếu tố thời tiết và chỉ số mắc sốt rét ở Krong Pa 1999-2005:
Bảng 3.13. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và BNSR Krông Pa (1999-2005)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
BNSR và LM | 0,5; p <0,01 | 0,258 | BN = 70,2 + 0,592 (LM); p <0,01 |
BNSR và ÂĐ | 0,6; p <0,01 | 0,349 | BN = – 637,5 + 9,846 (AĐ); p <0,01 |
BNSR và NĐ | 0,3; p <0,01 | 0,121 | BN = 631,2 – 19,309 (NĐ); p <0,01 |
BN và 3 yếu tố | 0,6; p <0,01 | 0,409 | BN = – 187,9 + 0,361 (LM) + 5,899 (AĐ)–6,856 (NĐ) |
+ BNSR (Bảng 3.13):tương quan trung bình LM (R = 0,5), tương quan cao ÂĐ (R = 0,6)và tương quan thấp NĐ (R = 0,3). Tương quan chung 3 yếu tố chi phối gần 41% (R2 = 0,409) BNSR Krông Pa, trong đó ÂĐ và LM có ý nghĩa thống kê (p <0,01) và đều đóng vai trò quyết định.
Bảng 3.14. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và KSTSRKrông Pa (1999-2005)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
KSTSR và LM | 0,6; p <0,01 | 0,318 | KSTSR = 24,3 + 0,293 (LM); p <0,01 |
KSTSR và ÂĐ | 0,6; p <0,01 | 0,402 | KSTSR = – 315,7 + 4,74 (AĐ); p <0,01 |
KSTSR và NĐ | 0,4; p <0,01 | 0,129 | KSTSR = 285,9 – 8,94 (NĐ); p<0,01 |
KSTSR và 3 yếu tố | 0,7; p <0,01 | 0,478 | KSTSR = –115 + 0,181 (LM) + 2,87 (AĐ) – 2,813(NĐ) |
+ KSTSR (Bảng 3.14):tương quan cao với cả LM vàÂĐ (R = 0,6), tương quan trung bình NĐ (R = 0,4). Tương quan chung 3 yếu tố chi phối 48% (R2 = 0,478) KSTSR huyện Krông Pa,trong đóLM và ÂĐ có ý nghĩa thống kê (p <0,01) và cùng đóng vai trò quyết định.
- Tương quan yếu tố thời tiết và chỉ số mắc sốt rét ở Krong Pa 2006-2010
Bảng 3.15. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và BNSR Krông Pa (2006-2010)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
BNSR và LM | 0,5; p <0,01 | 0,291 | BN = 23,2 + 0,296 (LM); p <0,01 |
BNSR và ÂĐ | 0,5; p <0,01 | 0,295 | BN = – 350,9 + 5,188 (AĐ); p <0,01 |
BNSR và NĐ | 0,3; p <0,01 | 0,119 | BN = 289,3 – 9,059 (NĐ); p <0,01 |
BN và 3 yếu tố | 0,6; p <0,01 | 0,355 | BN = –273,5 + 0,181 (LM) + 3,455(AĐ) + 1,499(NĐ) |
+ BNSR (Bảng 3.15): tương quan trung bình vớiLM vàÂĐ (R = 0,5), tương quan thấp vớiNĐ (R = 0,3). Tương quan cả 3 yếu tố chi phối gần 36% (R2 = 0,355) thay đổi BNSR huyện Krông Pa, trong đó LM và ÂĐ có ý nghĩa thống kê (p <0,05) và cùng đóng vai trò quyết định.
Bảng 3.16. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và KSTSRKrông Pa (2006-2010)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
KSTSR và LM | 0,5; p <0,01 | 0,288 | KSTSR = 11,8 + 0,22 (LM); p <0,01 |
KSTSR và ÂĐ | 0,5; p <0,01 | 0,279 | KSTSR = – 260,4 + 3,778 (AĐ); p <0,01 |
KSTSR và NĐ | 0,3; p <0,05 | 0,092 | KSTSR = 188,7 – 5,953 (NĐ); p <0,05 |
KSTSR và 3 yếu tố | 0,6; p <0,01 | 0,347 | KSTSR = – 222,3 + 0,142(LM) + 2,538(AĐ) + 1,7(NĐ) |
+ KSTSR (Bảng 3.16): tương quan trung bình LM vàÂĐ (R = 0,5), tương quan thấp NĐ (R = 0,03). Tương quan chung 3 yếu tố thời tiết chi phối gần 35% (R2 = 0,347) KSTSR Krông Pa, trong đóLM và ÂĐ có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) và cùng đóng vai trò quyết định.
- Tương quan yếu tố thời tiết và chỉ số mắc sốt rét ở Krong Pa 2011-2015
Bảng 3.17. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và BNSRKrông Pa (2011-2015)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
BNSR và LM | 0,4; p <0,01 | 0,155 | BN = 88,6 + 0,623 (LM); p <0,01 |
BNSR và ÂĐ | 0,4; p <0,01 | 0,17 | BN = – 848 + 12,659 (AĐ); p <0,01 |
BNSR và NĐ | 0,3; p <0,05 | 0,094 | BN = 658,9 – 19,615 (NĐ); p <0,05 |
BN và 3 yếu tố | 0,5; p <0,01 | 0,234 | BN = 308,7 + 0,445 (LM) + 2,648(AĐ)–15,597 (NĐ) |
+ BNSR (Bảng 3.17): tương quan trung bình vớiLM vàÂĐ (R = 0,4), tương quan thấp NĐ (R = 0,3). Tương quan chung 3 yếu tố chi phối 23% (R2 = 0,234) BNSR huyện Krông Pa nhưng không yếu tố nào có ý nghĩa thống kê (p >0,05) và không yếu tố nào đóng vai trò quyết định.
Bảng 3.18. Tương quan giữa yếu tố thời tiết và KSTSRKrông Pa (2011-2015)
Tương quan | Hệ số tương quan (R) | R2 | Phương trình hồi quy |
KSTSR và LM | 0,4; p <0,01 | 0,15 | KSTSR = 87,5 + 0,612 (LM); p <0,01 |
KSTSR và ÂĐ | 0,4; p <0,01 | 0,166 | KSTSR = – 840,2 + 12,535 (AĐ); p <0,01 |
KSTSR và NĐ | 03; p <0,05 | 0,088 | KSTSR = 641,4 – 19,034 (NĐ); p <0,05 |
KSTSR và 3 yếu tố | 0,5; p <0,05 | 0,227 | KSTSR =276,3 + 0,433(LM) +2,852(AĐ) +15,008(NĐ) |
+ KSTSR (Bảng 3.18): tương quan trung bình vớiLM vàÂĐ (R = 0,4), tương quan thấp vớiNĐ (R = 0,3). Tương quan chung 3 yếu tố chi phối gần 23% (R2 = 0,227) KSTSR Krông Pa nhưng không yếu tố nào có ý nghĩa thống kê (p >0,05) và đóng vai trò quyết định.
4. BÀN LUẬN
4.1. Tác động của biến đổi khí hậu tới chỉ số sốt rét khu vực thủy điện, thủy lợi
Kết quả nghiên cứu cho thấy biến đổi khí hậu tác động tới chỉ số sốt rét khu vực thủy điện, thủy lợi tỉnh Gia Lai qua số liệu quan trắc các yếu tố thời tiết trong vòng 20 năm (1999-2015) trở lại đây khẳng định sự tăng nhiệt độ xảy ra ở tất cả các trạm thuộc khu vực Tây Nguyên và nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn mùa hè rõ rệt. Năm 2009-2010 nhiệt độ càng cao hơn các năm trước, nắng nóng kéo dài làm khô hạn rất nhiều nơi trên khu vực Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng (Võ văn Phú, 2015). So sánh số liệu thu thập tại các Trạm khí tượng thủy văn Plei Ku, AyunPa (2005-2015) với số liệu khí hậu tỉnh Gia Lai của Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc (1978) (Bảng 4.1) thấy nhiệt độ trung bình năm tăng 0,30C, ẩm độ trung bình năm tăng 4%; trong khi đó lượng mưa trung bình năm giảm chỉ còn 1.757 mm, lượng mưa năm cực đại năm 2013 (1.998 mm) vẫn thấp hơn lượng mưa trung bình năm trước đây (2.447 mm) và lượng mưa trung bình năm cực tiểu năm 2006 chỉ còn (1.538 mm).
Bảng 4.1. So sánh số liệu khí tượng trước đây và hiện nay ở Gia Lai.
Chỉ số khí tượng | So sánh số liệu khí tượng, thủy văn tại Gia Lai |
Năm 1978 (Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc) | 2005-2015 (Số liệu đề tài) |
Nhiệt độ trung bình năm | 23,70C | 24,00C |
Độ ẩm trung bình năm | 77% | 81% |
Lượng mưa trung bình năm | 2.447 mm | 1.757 mm. |
Lượng mưa năm cực đại | 2.693 mm | 1.998 mm |
Lượng mưa năm cực tiểu | 1.514 mm | 1.538 mm |
- Khu vực thủy điện Sê San: số liệu thu thập tại Trạm khí tương thủy văn Pleiku 2 giai đoạn 2006-2010 và 2011-2015 đều không thay đổi về mùa (mưa và khô) nhưng có thay đổi về thời tiết khi lượng mưa trung bình tháng có xu hướng giảm thấp trong vòng 10 năm gần đây.
- Khu vực thủy điện, thủy lợi Krong Pa: số liệu thu thập tại Trạm khí tương thủy văn Ayunpa 2 giai đoạn 2006-2010 và 2011-2015 thấy mùa mưa kéo dài hơn nhưng lượng mưa có xu hướng tăng giảm thất thường trong vòng 10 năm gần đây.
Như vậy biến đổi khí hậu ở khu vực thủy điện Sê San (Tây Trường Sơn) không ảnh hưởng về mùa nhưng lượng mưa trung bình tháng cao hơn thủy điện, thủy lợi Krông Pa (Đông Trường Sơn). Ngược lại Krong Pa có nền nhiệt độ trung bình cao hơn khu vực thủy điện Sê San và mùa mưa kéo dài hơn từ tháng 4 đến 11 và mùa khô ngắn hơn từ tháng 12 đến 3 năm sau.
Theo nhiều tác giả nghiên cứu về mối tương quan giữa các yếu tố khí tượng với bệnh sốt rét trước đây thì nhiệt độ và lượng mưa có vai trò quan trọng quyết định mùa phát triển trong năm của muỗi Anopheles. Kết quả nghiên tại Khánh Phú, Khánh Hòa cho thấy sự liên quan của nhiệt độ và độ ẩm tương đối của không khí với số lượng cá thể của véc tơ sốt rét và sự thay đổi chế độ mưa trong năm có tác động đến quần thể muỗi lớn hơn. Việc tăng lượng mưa quá mức bình thường ở những tháng khô hạn là yếu tố quan trọng nhất làm giảm số lượng cá thể véc tơ, nhất là khi sự biến động này kéo dài trong vài năm liên tiếp đã hạn chế khả năng phục hồi của các quần thể véc tơ (Nguyễn Tuyên Quang và cs., 2002).
4.2. Tương quan giữa các yếu tố thời tiết với chỉ số mắc sốt rét
Cùng với những thay đổi về sinh cảnh, những thay đổi về mùa truyền bệnh sốt rét dưới tác động của biến đổi khí hậu ở các khu vực này trước hết sẽ chi phối sự phát triển của trung gian truyền bệnh muỗi Anopheles và các véc tơ sốt rét làm thay đổi chỉ số mắc sốt rét địa phương. Những năm mưa ít và khô hạn thì số mắc sốt rét thấp, ngược lại những năm mưa nhiều và độ ẩm cao thì nguy cơ sốt rét tăng. Kết quả nghiên cứu trong 2 năm 2014-2015 thấychỉ số mắc sốt rét ở khu vực thủy điện, thủy lợi Krông Pa cao hơn khu vực thủy điện Sê Sanvào giữa và cuối mùa mưa có sự tương quan thuận với biến đổi khí hậu cũng như môi trường, sinh cảnh sốt rét ở các khu vực này.Trong đó, trung gian truyền bệnh (muỗi Anopheles và các véc tơ sốt rét)sẽ phải thích nghi với diện hoạt động sau khi đập được xây dựnglàm thay đổi vai trò truyền bệnh của véc tơ cũng nhưmùa truyền bệnh sốt rét trong vùng.
Theo một số nghiên cứu ngoài nước, biến động thời tiết (nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa) ở vùng rừng núi cao nguyên Đông Phi, nhiệt độ trung bình tháng trước và lượng mưa 2 tháng trước đó có mối quan hệ tuyến tính bậc hai với mật độ An.gambiae (Kristan M, 2008). Một nghiên cứu cùng khu vực cho rằng tỷ lệ giữa lượng mưa và lượng thoát hơi tiềm năng là động lực gia tăng mật độ An.gambiae và An.arabiensis (Koenraadt CJ và cs, 2004). Tương tự nghiên cứu véc tơ sốt rét ở Gambia, sự gia tăng mật độ nhanh vào cuối mùa khô và tối đa sau khi bắt đầu những cơn mưa làm cho độ ẩm tăng lên (Jawara M và cs, 2008). Cây cối trong rừng cộng hơi ẩm trong không khí do bốc hơi nước giúp giảm nhiệt độ và tăng lượng mưa, môi trường ẩm cùng các vị trí sinh sản của muỗi do lượng mưa tạo ra làm tăng mật độ, tuổi thọ véc tơ từ đó làm tăng lan truyền bệnh sốt rét (Walker M, 2013). Thực tế sự phân bố lượng mưa các tháng trong năm có ý nghĩa với sự lan truyền sốt rét hơn là tổng lượng mưa, ảnh hưởng thời tiết lên muỗi là tổng hợp của các yếu tố, ngoài nhiệt độ thì độ ẩm và lượng mưa cũng giữ vai trò quan trọng với sự phát triển của muỗi. Độ ẩm tương đối của không khí quá thấp kìm hãm quá trình chuyển hóa trong cơ thể muỗi, ngược lại độ ẩm cao kéo dài đời sống của muỗi tạo điều kiện cho KSTSR đủ thời gian phát triển trong cơ thể muỗi. Lượng mưa thường có tác dụng hai chiều tạo thêm diện nước cho muỗi đẻ, đồng thời phá hủy những ổ sinh đẻ quen thuộc của các loài muỗi, mưa cũng làm tăng độ ẩm không khí, tăng tuổi thọ của muỗi (Bruce- Chwatt I.J. 1966).
Theo một số nghiên cứu trong nước, Nguyễn Sơn Hải và cs (2001) nghiên cứu bổ sung tập tính, sinh thái học 2 loài An.dirus và An.minimus ởKhánh Phú (Khánh Hòa) cho thấy An.minimus khi trú ẩn tiêu máu trong nhà tập trung ở những nơi có độ ẩm 70-88%, nhiệt độ từ 26oC-29oC và mưa không ảnh hưởng trực tiếp đến giờ hoạt động đốt mồi trong đêm của An.dirus, An.minimus nhưng ảnh hưởng tới số lượng cá thể hoạt động trong đêm của 2 véc tơ này. Nghiên cứu của Nguyễn Tuyên Quang (1996) về véc tơ sốt rét chính và một số yếu tố môi trường, con người ảnh hưởng tới tình hình bệnh sốt rét tại Vân Canh (Bình Định) cho rằng nhiệt độ môi trường giữ vai trò chính quyết định tốc độ phát triển cá thể muỗi và sự lan truyền bệnh sốt rét. Nghiên cứu của Lê Khánh Thuận (2001) tại Vân Canh (Bình Định) cho rằng thời tiết, nhiệt độ và lượng mưa hàng năm có ảnh hưởng rất lớn đến mật độ quần thể và tuổi thọ trung bình của các véc tơ, điều kiện thời tiết ấm áp, lượng mưa trải đều các tháng trong năm, độ ẩm trên 75% thì tuổi thọ của quần thể sẽ tăng, làm cho tỷ lệ nhiễm sốt rét tăng cao. Nghiên cứu của Hồ Văn Hoàng, Triệu Nguyên Trung và cs. (2005) về một số đặc điểm dịch tễ sốt rét trong cộng đồng dân cư ở các vùng cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều) tỉnh Gia Lai thấy tỷ lệ nhiễm KSTSR và bệnh sốt rét xuất hiện quanh năm cả 3 sinh cảnh nhưng có 2 đỉnh cao vào tháng 4-5 và 9-11; lượng mưa thay đổi tùy theo vùng địa lý và các tháng trong năm nhưng vào các đỉnh này lượng mưa và nhiệt độ trung bình cao hơn những tháng khác, nhiệt độ quanh năm >160C rất thuận lợi cho bệnh sốt rét phát triển. Hồ Văn Hoàng (2015)nghiên cứu diễn biến mùa truyền bệnh sốt rét dưới tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam cho thấy nhiệt độ trái đất nóng lên làm thay đổi mùa truyền bệnh sốt rét. Trong những năm 2006-2009, các chỉ số sốt rét ở Việt Nam cũng như miền Trung-Tây Nguyên tăng cao vào các tháng cuối năm có thể chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu thông qua sự thay đổi của các yếu tố thời tiết (nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa).
5. KẾT LUẬN
- Mùa truyền bệnh sốt rét ở Gia Lai lan truyền quanh năm nhưng có sự khác biệt giữa khu vực thủy điện Sê San (Tây Nam tỉnh Gia Lai) đỉnh cao từ tháng 7 đến 11; còn khu vực thủy điện, thủy lợi Krong Pa (Đông Nam tỉnh Gia Lai) muộn hơn từ tháng 8 đến 12 phù hợp với mùa mưa ở 2 khu vực này. Tuy nhiên, tác động biến đổi khí hậu những năm gần đây đã làm cho mùa truyền bệnh sốt rét ở khu vực nghiên cứu có xu hướng kéo dài hơn, trong đó khu vực thủy điện Sê San mùa truyền bệnh sốt rét kéo dài từ tháng 7 đến 12, còn Krong Pa mùa truyền bệnh sốt rét kéo dài từ tháng 7 đến 1-2 năm sau.
- Nguy cơ gia tăng sốt rét khu vực thủy điện, thủy lợi tỉnh Gia Lai liên quan chặt chẽ tới tác động của biến đổi khí hậu thông qua các yếu tố thời tiếttrong vòng 15 năm trở lại đây (2001-2015). Sự biến thiên của 3 yếu tố thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa), trong đó lượng mưa và độ ẩm có vai trò quyết định đến chỉ số mắc sốt rét (BNSR, KSTSR) tại địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.BộTàinguyênvàMôitrường,2009.KịchbảnBĐKH,nước biển dâng cho Việt Nam.
2.Nguyễn Sơn Hải, Nguyễn Thọ Viễn, R.P. Marchand (2001), “Nghiên cứu bổ sung tập tính, sinh thái học hai loài An.minimus và An.dirus ở Khánh Phú”, Kỷ yếu CTNCKH (1996-2000),Viện Sốt rét-KST & CT, NXB Y học, Hà Nội, tập 1, tr. 443-452
3.Hồ Văn Hoảng, Triệu Nguyên Trung, Nguyễn Duy Sơn và cs (2005). Một số đặc điểm dịch tễ sốt rét trong cộng đồng dân cư ở các vùng cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều) tỉnh Gia Lai. Tạp chí YHTH (511) tr. 104-110.
4.Hồ Văn Hoàng (2014), Nghiên cứu diễn biến mùa truyền bệnh sốt rét dưới tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số khuyến nghị. Báo cáo kết quả NCKH đề tài cấp Bộ Y tế. 92 tr.
5.Võ Văn Phú (2015), Nghiên cứu ứng phó với biến đổi khí hậu cho ngành nông nghiệp Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Báo cáo tổng hợp Kết quả nghiên cứu đề tài cấp tỉnh Gia Lai.
6.Nguyễn Tuyên Quang (1996), Nghiên cứu muỗi sốt rét chủ yếu và một số yếu tố môi trường, con người ảnh hưởng tới tình hình sốt rét huyện Vân canh, Bình định. Luận án PTS sinh học, Trường Đại học KHTN Hà Nội.
7.Nguyễn Tuyên Quang, Marchand R. P., Nguyễn Thọ Viễn, Nguyễn Sơn Hải, Trần Đức Hinh, Phan Châu Do và cs (2002), Ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu lên quần thể An. minimus tại Khánh Phú. Tạp chí PCSR và các bệnh ký sinh trùng số 6-2012. Tr: 68-77.
8.Nguyễn Xuân Quang, Trương Văn Có, Lê Giáp Ngọ, Đỗ Công Tấn, Hồ Đắc Thòan và ctv (2002), “Các quần thể muỗi Anopheles trên các khu vực hệ thống thủy lợi, thủy điện và vùng cây công nghiệp ở Tây Nguyên”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học phòng chống sốt rét (1997-2002), Dự án phòng chống sốt rét Việt Nam-EC, NXB Y học, tr. 389-404.
9.Lê Khánh Thuận và cs (2001).“Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học An.minimus, An.dirus, các yếu tố thời tiết (nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa) liên quan đến lan truyền sốt rét ở 2 thí điểm nghiên cứu Vân Canh (Bình Định) và Iakor, Chư Sê (Gia Lai)”. Kỷ yếu CTNCKH (1966-2000), Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, NXB Y học, tr.422-433
10.Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc (1978). Khí hậu Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật (toàn tập).
11.Bruce-Chwatt I.J., Garret- Jones and Weitz (1966). Ten years study (1955–1964) of host selection by Anopheline mosquitoes, Bull. WHO , p: 405-439.
12.Jawara M, Pinder M, Drakeley CJ, Nwakanma DC, Jallow E, Bogh C, Lindsay SW, Conway DJ (2008). Dry season ecology of Anopheles gambiaecomplex mosquitoes in The Gambia.Malar J 2008, 7:156.
13.Koenraadt CJ, Githeko AK, Takken W (2004). The effects of rainfall and evapotranspiration on the temporal dynamics of Anopheles gambiae s.s. and Anopheles arabiensis in a Kenyan village. Acta Trop 2004, 90:141-153.
14.Kristan M, Abeku TA, Beard J, Okia M, Rapuoda B, Sang J, Cox J (2008). Variations in entomological indices in relation to weather patterns and malaria incidence in East African highlands: implications for epidemic prevention and control. Malar J 2008, 7:231.
15.Walker M, Winskill P, Basanez MG, Mwangangi JM, Mbogo C, Beier JC, Midega JT (2013). Temporal and micro-spatial heterogeneity in the distribution of Anopheles vectors of malaria along the Kenyan coast. Parasit Vectors 2013, 6:311.