Nguyên nhân biến đổi khí hậu toàn cầu do chính con người gây nên, làm ảnh hưởng lớn đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nguy cơ phát sinh dịch bệnh và sức khỏe con người. Hệ thống thủy điện sông Sê San gồm 4 công trình thủy điện lớn là Yali, Sê San 3, Sê San 3A và Sê San 4 góp phần quan trọng cung cấp mạng lưới điện quốc gia. Tuy nhiên sự thay đổi môi trường sinh thái khu vực hồ thủy điện bao phủ đã làm ảnh hưởng đến sự lan truyền sốt rét tại địa phương, đặc biệt là thành phần và phân bố các loài véc tơ truyền bệnh sốt rét.
Đặt vấn đề
Sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét phụ thuộc vào 3 yếu tố: trung gian truyền bệnh (muỗi Anopheles), tác nhân gây bệnh (KSTSR) và khối cảm thụ (con người). Môi trường có vai trò chi phối các yếu tố lan truyền bệnh và quyết định sự hình thành các vùng dịch tễ sốt rét, trên thế giới hiện nay điều kiện môi trường sinh thái có nhiều thay đổi, đặc biệt là biến đổi khí hậu toàn cầu ảnh hưởng đến sự phát triển của khu hệ côn trùng nói chung và quần thể Anopheles nói riêng. Theo các chuyên gia quản lý môi trường, nguyên nhân của sự biến đổi này chủ yếu là do tác động của con người đến sinh cảnh tự nhiên như ngăn đập xây dựng hồ thủy điện và các hệ thống tưới tiêu, phát triển các rừng cây công nghiệp (cao su, cà phê, chè, hồ tiêu…) cùng với tình trạng khai thác lâm sản không được kiểm soát đã làm tăng không gian sống của các loài côn trùng cũng như làm thay đổi các đặc điểm sinh học, sinh thái và vai trò truyền bệnh của chúng dẫn đến những vụ dịch nghiêm trọng, nhất là đối với bệnh sốt rét.
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới thuộc Đông Nam Á, có nhiều điều kiện thuận lợi để các loài muỗi truyền bệnh sốt rét (Anopheles) phát triển và sinh sản quanh năm. Trong nhiều năm qua, với các biện pháp diệt véc tơ truyền bệnh của Dự án quốc gia phòng chống sốt rét (phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn chống muỗi đốt) và các biện pháp phòng chống khác (điều trị bệnh nhân, truyền thông giáo dục sức khỏe), bệnh sốt rét đang từng bước được đẩy lùi, phạm vi sốt rét dần bị thu hẹp lại; tuy nhiên, tại các vùng trọng điểm sự giảm sốt rét chưa mang tính bền vững và nguy cơ sốt rét quay trở lại vẫn còn cao.
Gia Lai và Kon Tum là hai tỉnh nằm trên địa bàn Tây Nguyên có 85% diện tích thuộc vùng rừng núi, đồng thời là vùng sốt rét lưu hành. Trong nhiều năm qua, điều kiện sinh cảnh tự nhiên ở hai tỉnh này có nhiều thay đổi do các diện tích rừng bị thu hẹp để khai thác lâm sản hoặc trồng cây công nghệp (cao su, cà phê), đặc biệt là các công trình thủy điện, thủy lợi ở quy mô khác nhau không ngừng được xây dựng để cung cấp điện cho mạng lưới điện quốc gia và dẫn nước tưới tiêu cho những cánh đồng trồng lúa và các vùng trồng cây công nghiệp. Trong những công trình này, phải kể đến hệ thống thủy điện sông Sê San với khu vực lòng hồ rộng lớn bao phủ một số huyện (Iagrai, Chư Pảh, Sa Thầy) của hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Đất rừng bị ngập nước ở các vùng lòng hồ cùng với tình trạng khai phá rừng bởi chính con người đã làm thay đổi môi trường sinh cảnh ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi thành phần loài, mật độ, phân bố, đặc tính sinh học, sinh thái và khả năng phục hồi của quần thể muỗi Anopheles cùng với sự xáo trộn lớn về dân cư (thu hút nhân công từ các nơi khác đến xây dựng công trình, dân địa phương phải di dời) và sự hình thành các khu dân cư mới xung quanh khu vực lòng hồ làm cho tình hình sốt rét diễn biến phức tạp và khó kiểm soát.
Để đề xuất các biện pháp phòng chống sốt rét phù hợp nhằm bảo vệ cộng đồng ở khu vực này, trước hết cần phải nắm được tổng quan về tác động của sự biến đổi môi trường sinh thái hệ thống thủy điện sông Sê San đến sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét tại địa phương.
Tổng quan về tác động đến môi trường do biến đổi khí hậu toàn cầu
Khái niệm, nguyên nhân và biểu hiện của biến đổi khí hậu toàn cầu
Khái niệm về biến đổi khí hậu
Theo Công ước chung của Liên hiệp quốc, biến đổi khí hậu (BĐKH) là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi, sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên. Hiện nay trên thế giới, biến đổi khí hậu không chỉ là lời cảnh báo mà đã trở thành mối hiểm họa thường xuyên như bão lũ, nước biển dâng, sa mạc hóa… với tần suấtngày càng tăng, cường độ ngày càng mạnh. Hầu hết những thảm họa thiên nhiên này đều có nguyên nhân từ tình trạng biến đổi khí hậu do chính con người gây nên, làm ảnh hưởng lớn đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nguy cơ phát sinh dịch bệnh và sức khỏe con người.
Nguyên nhân chính của biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu làm trái đất nóng lên là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra chất thải khí nhà kính, khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto khuyến cáo hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.
- CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
- CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
- N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
- HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
- PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
- SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
Các biểu hiện của biến đổi khí hậu
Khí hậu là trạng thái trung bình của thời tiết tại khu vực nào đó theo chuỗi số liệu dài khoảng 30 năm và là kết quả của sự tương tác giữa các quá trình vật lý, hoá học và sinh học dưới tác động của năng lượng mặt trời. Sự tương tác này là một quá trình phức tạp, vì vậy, chế độ khí hậu không cố định mà luôn có tính biến động. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu là sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung !important; sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất; sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp và các đảo nhỏ trên biển; sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người; sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác. Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, địa quyển; sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất.
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu
Ảnh hưởng tới yếu tố tự nhiên, môi trường
Ở nước ta, biến đổi khí hậu thể hiện rõ nhất ở sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan và thiên tai, cả về số lượng lẫn cường độ. Trong khi tình trạng nắng nóng gay gắt kéo dài vào mùa hè kéo theo hạn hán dữ dội trên diện rộng thì trong những năm gần đây số cơn bão có cường độ mạnh cũng xuất hiện nhiều hơn. Nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển bất thường, phức tạp, khó dự đoán và mùa mưa bão cũng kết thúc muộn hơn. Cùng với sự nóng lên của bề mặt trái đất, nhiệt độ trung bình của các khu vực ở nước ta cũng tăng lên. Theo các chuyên gia thời tiết, nhiệt độ bề mặt trái đất tăng từ 0,3-0,5 độ C trong năm 2010, từ 1-2 độ C vào năm 2020. Đáng chú ý là ở những vùng hay xảy ra hạn hán như Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ, hạn hán có thể còn tăng lên cả về cường độ và diện tích. Hiện tượng biến đổi khí hậu ở nước ta đã và đang tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến mọi lĩnh vực liên quan đến đời sống con người. Trước hết là vấn đề nhiệt độ tăng làm tăng tác động xấu đối với sức khỏe con người. Ở khu vực phía Bắc và Bắc Trung bộ, mùa đông sẽ ấm dần lên, dẫn tới những thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người. Các căn bệnh truyền nhiễm như sốt rét, sốt xuất huyết có nguy cơ bùng phát thông qua sự phát triển của các loài ký sinh trùng,vius, các côn trùng và vật mang bệnh đồng thời khiến cho các bệnh nhiễm khuẩn dễ lây lan ra cộng đồng. Những đối tượng dễ bị tổn thương hơn cả là người nghèo, người già, phụ nữ, trẻ em, người dân ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Ảnh hưởng tới sự phát sinh dịch bệnh và và sức khỏe con người
Các vấn đề do môi trường thay đổi tác động trực tiếp đến sự phát sinh dịch bệnh và sức khỏe con người. Lũ lụt gây ngập úng kéo dài, sự bùng phát của côn trùng gây bệnh như sốt rét, sốt xuất huyết, những nguồn gây bệnh, làm tăng khả năng bùng phát và lan truyền các bệnh dịch như bệnh cúm A/H1N1, cúm A/H5N1, tiêu chảy, dịch tả.... Biến đổi khí hậu làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh như viêm não Nhật Bản, làm tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi khuẩn và côn trùng, vật chủ mang bệnh (ruồi, muỗi, chuột, bọ chét, ve). Biến đổi khí hậu là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện trở lại của một số bệnh truyền nhiễm ở vùng nhiệt đới (sốt rét, sốt Dengue, dịch hạch, dịch tả), xuất hiện một số bệnh truyền nhiễm mới (SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1), thúc đẩy quá trình đột biến của virut gây bệnh cúm A/H1N1, H5N1 nhanh hơn. Các hoạt động của con người đã gây biến đổi hệ sinh thái cả ở trên cạn và dưới nước, săn bắn trái phép làm giảm đáng kể, thậm chí gây diệt vong một số loài thú hiếm, phát thải khí nhà kính ngày càng tăng là nguyên nhân chủ yếu của xu thế ấm lên toàn cầu, tầng ozon bị phá huỷ dẫn đến sự tăng cường độ bức xạ tử ngoại trên mặt đất, là nguyên nhân gây bệnh ung thư da và các bệnh về mắt. Các đợt nắng nóng kéo dài, nhiệt độ không khí tăng, gây nên những tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người, dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, những người mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh, dị ứng.
Tác động tới phát triển kinh tế
Biến đổi khí tác động đến hầu hết các ngành kinh tế, trong đó ngành nông-lâm nghiệp ảnh hưởng nhiều nhất. Sự nóng lên trên phạm vi toàn lãnh thổ, đã tác động đến sinh trưởng, thời vụ, năng suất cây trồng, làm tăng nguy cơ lây lan bệnh. Nhiệt độ có xu hướng tăng cũng ảnh hưởng đến chất lượng sinh sản, quá trình sinh trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của chúng. Ngành nông nghiệp đối mặt với nguy cơ thiếu hụt về giống cây trồng, vật nuôi. Biến đổi khí hậu cũng có khả năng làm tăng tần số, cường độ và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như: bão, lụt, tố, lốc, hạn hán, rét hại làm vật nuôi chậm phát triển, mùa màng thất bát tất yếu làm ảnh hưởng đến vấn đề an ninh lương thực.
Tần suất xuất hiện ngày càng nhiều các hiện tượng thiên tai như bão, lũ lụt, mưa lũ tăng tạo nguy cơ ngập lụt đối với các vùng đất thấp, điển hình như đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng nhiễm mặn, nhiễm phèn trên diện rộng làm thiệt hại đến mùa màng; hạn hán thường xảy ra vào mùa khô, nắng nóng, lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa nhiều lần đã làm cây trồng khô héo nhanh chóng, có thể dẫn tới làm chết cây trồng hàng loạt.
Tác động đối với đời sống- xã hội
Ở nước ta trong những năm gần đây, số lượng người mất nhà cửa và kinh tế lâm vào khó khăn sau mỗi trận bão, lũ lụ rất lớn. Điển hình là cơn bão số 4 năm 2008 đã làm 162 người chết, làm sập, hỏng 11.500 căn nhà, trường học, gây ngập úng 27.200 ha lúa và hoa màu, làm sạt trôi và bồi lấp 2,3 triệu khối đất đá trên các công trình giao thông, thủy lợi và các khu nuôi trồng thủy sản, làm chết 28.000 gia súc, gia cầm, thiệt hại lên tới 1.900 tỉ đồng. Hậu quả của thiên tai không chỉ dừng lại ở đó, ảnh hưởng của chúng còn tồn tại sau một thời gian dài, chất lượng sống con người ảnh hưởng nghiêm trọng do thiếu ăn, thiếu nhà ở, y tế và giáo dục không đảm bảo.
Mới đây, theo báo cáo của Uỷ ban liên quốc gia về BĐKH đã khẳng định, BĐKH gây tử vong và bệnh tật thông qua hậu quả của các dạng thiên tai như sóng nhiệt/nóng, bão, lũ lụt, hạn hán… nhiều bệnh, dịch gia tăng dưới tác động của sự thay đổi nhiệt độ và hoàn cảnh sống, nhất là các bệnh truyền qua vật trung gian, như sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não, các bệnh đường ruột và các bệnh khác… Những bệnh này, đặc biệt phát tán nhanh ở các vùng kém phát triển, đông dân cư và có tỉ lệ đói, nghèo cao thuộc các nước đang phát triển. Nước ta, trong thời gian qua cũng đã xuất hiện một số bệnh mới ở người và động vật (cúm gia cầm, bệnh lợn tai xanh…), nhiều bệnh có diễn biến phức tạp và bất thường hơn (sốt xuất huyết) và gây ra nhiều thiệt hại đáng kể.
Những giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu
Để ứng phó với thiên tai, dịch bệnh do biến đổi khí hậu gây nên cần có sự hợp tác chặt chẽ của các nước trên thế giới trong việc bảo vệ môi trường- ngôi nhà chung của chúng ta. Chính vì vậy, vừa qua đã diễn ra Hội nghị quốc tế với sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia chuyên đề về biến đổi khí hậu toàn cầu nhằm đưa ra các biện pháp giảm thiểu các khí thải, chất thải gây ô nhiễm môi trường, cũng như tăng cường các phương tiện, thiết bị hiện đại để dự báo thiên tai, thảm hoạ sớm và chính xác như dự báo động đất, sóng thần, bão có cường độ lớn, lũ lụt, hạn hán...
Trong một thế giới mới, rộng mở, linh hoạt với một hệ thống thông tin liên lạc phát triển mạnh mẽ, tân tiến như mạng điện thoại di động, internet, thêm vào đó sự phát triển cao của cách mạng kỹ thuật mới trong đời sống cả về thực phẩm, đồ uống đóng sẵn, thuốc men hữu hiêu, thì sự tự trợ cứu của mỗi quốc gia cùng sự ủng hộ quốc tế sẽ làm cho việc sống sót cũng như khắc phục hậu quả các thiên tai- thảm họa thiên nhiên trở nên chắc chắn hơn và nhanh chóng hơn. Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nặng nề bởi biến đổi khi hậu cho nên càng cần thực hiện những giải pháp đồng bộ, vừa góp phần làm giảm biến đổi khí hậu vừa có những biện pháp thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu.
Tổng quan về sự biến đổi môi trường sinh thái đến tình hình sốt rét
Trên thế giới
Nghiên cứu về đặc điểm sinh thái, phân bố của véc tơ sốt rét của: Baimai V., Udom Kijichalao, Phom Sawadwongporni v Green C.A (1984) đã nghiên cứu phân bố và tập tính đốt máu của An. dirus ở Thái Lan chỉ ra rằng: An.dirus phát triển liên quan chặt chẽ với rừng, sự vắng mặt khi rừng bị tàn phá, xuất hiện trở lại ở những vùng trồng cao su ở Thái Lan. Kondrashin, Jung R.K., Akiyama J (1991) nghiên cứu đặc điểm sinh thái của sốt rét rừng ở Nam Á cho rằng diện bao phủ của rừng ở Thái Lan bị thu hẹp lại làm quần thể An. dirus ở đây cũng co cụm lại. Pierre Defourny và Marc Coosemans (2007) cho rằng sự đa dạng của An. dirus làm cho sốt rét lưu hành nặng khu vực châu Á, những nghiên cứu về sự khác nhau một tập tính sinh học của nhóm loài Ano.dirus đã cho thấy ảnh hưởng của môi trường, sự biến đổi tập tính có thể xác định khả năng thích nghi của véc tơ với môi trường đang thay đổi.
Ảnh hưởng của sinh cảnh và khí hậu đến phân bố quần thể muỗi của tác giả A.A.Sharkov (1997); độ cao của quan cảnh môi trường quanh con người ảnh hưởng đến mật độ An. albamanus, M.H. Rodriguez (1997); ảnh hưởng sinh cảnh và khí hậu đến phân bố quần thể muỗi của tác giả A.A. Sharkov (1997); hệ sinh thái liên quan đến lan truyền sốt rét, Reisen W.K. (1999).
Tại Việt Nam
Nghiên cứu các tác động của con người làm thay đổi môi trường ảnh hưởng đến véc tơ sốt rét: Lê Văn Sắc, Trần Đức Hinh (1985) nghiên cứu muỗi truyền bệnh sốt rét ở vùng khai hoang xây dựng kinh tế mới ở DacUy-Kon Tum[8].
Nghiên cứu sinh thái của véc tơ và vai trò truyền bệnh sốt rét có: Lê khánh Thuận. Trưởng Văn Có và cs (2002) nghiên cứu sự thay đổi sinh thái của véc tơ và mùa lan truyền sốt rét đã đề xuất phân vùng dịch tễ sốt rét ở miền trung Tây Nguyên. Vũ Đức chính và cs (2006) nghiên cứu sự phân bố Anopheles và các véc tơ sốt rét ở một số sinh cảnh rừng hiện nay ở miền Bắc Việt Nam xác định véc tơ chính là An. minimus có mặt ở các sinh cảnh: rừng rậm nguyên sinh, rừng rậm thứ sinh, và rừng thưa, cây bụi; còn An. dirus trước đây đóng vai trò chính trong lan truyền sốt rét ở một số khu vực địa phương phí bắc Trường Sơn, hiện nay mật độ rất thấp và phân bố trong phạm vị hẹp. Trương Văn Có, Nguyễn Xuân Quang, Đỗ Công Tấn và cs (2008) đã nghiên cứu các quần thể muỗi Anopheles, một số đặc điểm và vai trò truyền bệnh của véc tơ sốt rét ở các khu bảo tồn: Yok Đôn (Đăks Lắk) và rừng đặc dụng Đắk Hà (Kon Tum) đã xác định An. minimus đóng vai trò chính trong lan truyền sốt rét tại chỗ ở hai điểm nghiên cứu, An. dirus đóng vài trò lan truyền chính ở Yok Đôn, có mật độ cao ở trong rừng, vùng đệm cách bìa rừng khoảng 3-5km không thu thập được.
Nghiên cứu ảnh hưởng của khí hậu lên quần thể muỗi An.minimus tại khánh phú, tác giả Nguyễn Tuyên Quang, Marchand R.P, Nguyễn Thọ Viễn (2002) nhận định: khoảng nhiệt độ để quần thể muỗi An.minimus tồn tại và phát triển > 180C và <330C cùng với khoảng ẩm độ tương ứng là > 81% và < 90%.
Tổng quan về hệ thống thủy điện sông Sê San
Vị trí, giới hạn và phạm vi bao phủ của thủy điện sông Sê San
Sông Sê San là một trong các nhánh lớn của lưu vực hạ du sông Mê Kong, có trữ lượng thủy điện lớn thứ 3 sau sông Đà và sông Đông Nai. Trên lãnh thổ Việt Nam sông Sê San nằm trên hai tỉnh Gialai và Kon Tum với tổng chiều dài sông chính là 237 km, diện tích lưu vực là 11.450km2. Phần phía thượng lưu thung lũng sông nằm trong vùng đồi núi thấp, độ dốc địa hình trung bình, có nhiều dân cư sinh sống tập trung ven sông. Phía Đông- Bắc của phần thượng lưu, sông tiếp giáp với vùng phân thủy giữ Đông và Tây của dải Trường Sơn. Phần phía hạ lưu, thung lũng sông nằm trong các hẻm sâu của các dãy núi cao, độ dốc địa hình khá lớn, hầu như không có dân cư sinh sống ven sông. Đặc điểm tự nhiên của các vùng thượng và hạ lưu khác nhau đã tạo nên các hình thái khác nhau cho việc xây dựng các dự án thủy điện, vùng thượng lưu xây dựng các hồ chứa lớn, đóng vai trò quyết định cho việc điều tiết dòng chảy cho các dự án thủy điện phía hạ lưu.
Quy hoạch bậc thang thủy điện sông Sê San đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại văn bản số 496/CP-CN ngày 7/6/2001.Trên địa bàn tỉnh Gialai có 4 công trình thủy điện chính đã vận hành là Yali, Sê San 3, Sê San 3A, Sê San 4 và 1 công trình thủy điện vừa hoàn thành là Sê San 4A đều nằm trên dòng sông Sê San với nhiệm vụ phát điện là chính. Sê San là một trong các nhánh sông lớn của lưu vực hạ du sông Mê Kông trên lãnh thổ Việt Nam, sông Sê San được hợp thành bởi hai nhánh chính là sông Đakbla và sông Krôngpoko, chảy từ hướng Đông Bắc sang Tây Nam dãy Trường Sơn, qua địa phận hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Sông chính có tổng chiều dài 237km, diện tích lưu vực 11.450 km2.
Với những lợi thế về tự nhiên, dòng chảy, độ dốc, lưu vực sông Sê San đã được Chính phủ quy hoạch xây dựng 7 công trình thủy điện là: Pleikrông (công suất 100 MW), Ialy (720 MW), Sê San 3 (260 MW), Sê San 3A (108 MW), Sê San 4 (360 MW), Sê San 4A (63 MW) và thủy điện Thượng Kon Tum (220 MW) với tổng công suất 1.831 MW (đang thi công), hàng năm sản sinh trên 8,5 tỷ kWh điện. Nếu xét về tiềm năng thủy điện ở tất cả hệ thống sông ngòi trên lãnh thổ Việt Nam thì sông Sê San đứng ở vị trí thứ 3, sau sông Đà và sông Đồng Nai, chiếm 11,3% tổng tiềm năng thủy điện toàn quốc. Có thể nói, nguồn “vàng trắng’ mà sông Sê San mang lại đã đóng góp một phần quan trọng trong hệ thống điện quốc gia cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Các yếu tố ảnh hưởng môi trường của hệ thống thủy điện Yali
Vị trí, giới hạn và quy mô của hồ thủy điện Yali
Công trình thuỷ điện Yaly thuộc hệ thống bậc thang thủy điện trên sông Sê San, được khởi công năm 1993 và hoàn thành vào năm 2003 với diện tích trên 20km2, nằm giáp ranh giữa hai huyện Chưpăh (tỉnh Gia Lai) và huyện Sa Thầy (tỉnh Kon Tum). Trong đó huyện ChuPah là 2.248,5 ha gồm hồ chứa 2000 ha, khu phụ trợ bờ trái và đập là 246 ha, đường dây 500 KV và đường vận hành là 2,5 ha. Lòng hồ thuỷ điện Yaly phần lớn nằm trên địa phận huyện Sa Thầy thuộc lưu vực sông Pô Kô và Đắk Bla với tổng công suất lắp đặt 720mw và sản lượng bình quân theo thiết kế 3 tỷ 680 triệu kWh, điện lượng bình quân nhiều năm là 3,68 tỉ kWh. Nhà máy thủy điện Yaly là công trình lớn thứ 2 ở nước ta sau Công trình thủy điện Hòa Bình trên Sông Đà, sau 9 năm xây dựng với thời tiết khắc nghiệt và địa hình hiểm trở, vùng thác Yaly hoang sơ trở thành một công trình kỳ vĩ.
Ảnh hưởng môi trường kinh tế-xã hội vùng hồ thủy điện Yali
Trong tổng 26 làng nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của hồ chứa Yali thì 14 làng 1.195 hộ và 5.577 khẩu chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số (Ba Na, Rơ Ngao, Jarai) và một số người Kinh phải di chuyển sang nơi ở mới quanh bờ hồ thủy điện Yaly thuộc huyện Chư Pảh (Gia Lai), huyện Sa Thầy và một phần thị xã Kon Tum (Kon Tum). Được Ban quản lý dự án thủy điện 4 thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam hỗ trợ các chương trình lương thực, y tế, trang thiết bị trường học, trụ sở, khuyến nông; từ khi phải di dời (đầu năm 2004) đến nay, cuộc sống đồng bào ở vùng tái định cư đã ổn định và phát triển.
Ảnh hưởng môi trường sinh thái của vùng hồ thủy điện Yali
Với chiều cao đập 60 m, dung tích hồ chứa nước Yali hơn 1 tỷ m3, diện tích hồ bao phủ trên 20km2 môi trường tự nhiên có nhiều thay đổi và ảnh hưởng đến sinh thái các khu hệ động vật cũng như thực vật. Ngày 1-9-2005 một tổ chức có tên là Hệ thống Bảo vệ Sê San (Sesan Protection Network) đã thông báo nhiều trận lũ lụt liên tiếp xảy ra từ ngày 3 đến 13 tháng 8 năm 2005 dọc theo sông Sê San nằm trong tỉnh Ratanakiri của Cambodia và gây một số thiệt hại nghiêm trọng cho người dân trong vùng, phát xuất từ việc điều hành Đập thủy điện Yali ở Việt Nam. Trong một nghiên cứu ảnh hưởng xã hội và môi trường cho dự án Thủy điện Se San 3 do Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB) tài trợ, được công bố trong tháng 4/2000, Công ty Cố vấn Worley WLT LTD của Australia đã kết luận rằng “Lượng định Ảnh hưởng Môi trường (Environmental Impact Assessment (EIA) của dự án Thủy điện Yali đã không được thực hiện một cách đúng đắn và việc tích trữ nước hồ chứa Yali và vận hành các máy phát điện đã có ảnh hưởng không thể chấp nhận được ở hạ lưu. Việc điều hành Đập thủy điện Yali theo dự trù sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng nghiêm trọng ở hạ lưu.” Công ty Worley khuyến cáo Điện lực Việt Nam nên điều hành Đập thủy điện Yali một cách an toàn hơn, có trách nhiệm hơn, và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Công ty Worley đề nghị Điện lực Việt Nam nên (1) thay đổi lối điều hành Đập thủy điện Yali dựa theo lưu lượng tự nhiên của sông Sê San cho đến khi lối điều hành tối ưu được Việt Nam và Cambodia thỏa thuận, (2) lượng định các thiệt hại do việc xả nước từ hồ Yali gây ra từ tháng 1/1999 cho đến khi chúng được giảm thiểu với sự đồng ý của đại diện cư dân Việt Nam và Cambodia ở hạ lưu (3) bồi thường cho bất cứ ai bị thiệt hại tài sản, thương tật, di dời nhà cửa, thất mùa, bất tiện (4) thiết lập một hệ thống báo động việc xả nước từ hồ Yali để tránh thảm cảnh tương tự xảy ra trong tương lai.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn của cơ quan tài chính quốc tế Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB), năm 2009 Tổng công ty thủy điện sông Đà đã đánh giá tác động của thủy điện Yali đến môi trường với kết quả là hồ chứa không có tác động đáng kể vào khí hậu lưu vực, nhưng có làm thay đổi đến vùng khí hậu xung quanh hồ, chủ yếu tăng độ ẩm, dòng chảy thường xuyên nhỏ luôn giữ những vũng nước tồn quanh năm.Ảnh hưởng chủ yếu do thay đổi điều kiện sống, nước ngập hồ chứa chuyển vào làng làm 5.577 người, chủ yếu là người đồng bào phải di dời chỗ ở. Thủy điện Yali làm ngập 272 ha rừng với 111 ha rừng gỗ, 161 ha rừng le, diện tích rừng giảm rất cao, 4,3% gây biến động mạnh về sinh thái. Hồ chứa làm ngập 6.450 ha đất trong đó có 1933 ha đất canh tác. Khu tái định cư và xung quanh vùng đất thuộc vùng hồ chứa với sự có mặt của 10.000- 20.000 công nhân trong thời gian xây dựng từ 4-6 năm, xuất hiện hệ thống canh tác được gọi là ‘chặt phá và đốt’, đồng thời sự khai thác gỗ và phá rừng trong quá trình vận hành xây dựng thủy điện làm thay đổi môi trường không nhỏ, chủ yếu làm thoái hóa đất nông nghiệp và đất rừng.
Với diện tích hồ chứa mực nước dâng 64,5 km2, mực nước chết 17,2 km2, diện tích mặt hồ 31km2; từ dạng dòng chảy của sông tự nhiên thành dạng nước tù ít lưu thông làm thay đổi môi trường sinh thái của toàn bộ cộng đồng thủy sinh. Trong khu vực thủy điện Yali, vấn đề nổi bật là sự gia tăng các vật chủ trung gian truyền bệnh, nhất là quần thể muỗi Anopheles và các vec tơ chính truyền bệnh sốt rét (An.minimus, An.dirus) có nguy cơ hoạt động thường xuyên hơn sau khi đập được xây dựng; thực tế cho thấy bệnh sốt rét rất phổ biến, 90% trường hợp nhiễm KSTSR. Qua phân tích cơ quan chức năng đưa ra 3 lí do chính cho vấn đề này:
- Môi trường sinh thái thay đổi do xây dựng đập có thể là nguyên nhân chủ yếu cho sự xâm nhập các bệnh truyền nhiễm như sốt rét, sốt xuất huyết.
- Một số lượng lớn người sẽ định cư đến vùng để xây dựng- đây thuộc dân di biến động có thể sẻ mang các bệnh mới đến và có nguy cơ nhiễm bệnh cao trong điều kiện sống mới và quá đông đúc của công trường.
- Phần lớn người đồng bào phải tái định cư và số người không tái định cư đều chịu ảnh hưởng của sự thay đổi điều kiện sống, trong khi các cơ sở y tế còn yếu kém.
Các yếu tố ảnh hưởng môi trường của hệ thống thủy điện Sê San 3
Vị trí, giới hạn và quy mô của hồ thủy điện Sê San 3
Công trình được xây dựng trên sông Sê San thuộc địa phận xã Yali, huyện sa thầy (tỉnh Kon Tum) và xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Păh (tỉnh Gia Lai); cách đập Yali 20 km về phía hạ lưu, cách thành phố Pleku khoảng 42km theo đường chim bay về hướng Tây-Bắc, đi theo quốc lộ khoảng 34km. Tổng diện tích mặt bằng thi công là 53,65 ha, tổng diện tích rừng bị ngập trong lòng hồ là 157,5 ha, trong đó huyện Chư Păh (Gia Lai) chiếm 57,3 ha. Tổng diện tích lưu vực sông Sê San trên đất Việt Nam là 11.450km2, trong đó tính đến tuyến công trình thủy điện sông Sê San 3 là 7.788km2 chiếm 68% toàn lưu vực, độ dài sông tính đến tuyến công trình là 198km.
Thủy điện Sê san 3 có công suất 260MW, sản lượng bình quân hàng năm 1,221 tỉ kWh, làm việc theo hình thức đắp đập dâng tạo cột nước, sử dụng lưu lượng dòng chảy của sông Sê San đã được điều tiết qua hồ chứa Yali ở phía thượng lưu. Nguồn nước cung cấp cho Sê San 3 là nước từ Yali xả xuống, dung tích toàn bộ hồ chứa là 92 triệu km2, hồ điều tiết ngày đêm và quy trình làm việc phụ thuộc vào chế độ vận hành của thủy điện Yali.
 |
Thủy điện Sê San 3 - Nhìn từ phía thượng lưu |
Ảnh hưởng môi trường tự nhiên và xã hội vùng hồ thủy điện
Xã Ia Mơ Nong nằm bên bờ trái của sông Sê San thuộc huyện Chư pảh (Gia Lai) có 9 bản với 867 hộ và 4350 nhân khẩu chủ yếu là người dân tộc Giarai, chỉ có 1 thôn là người kinh. Các bản Doch1, Doch 2 và Dip nằm trong phạm vi ảnh hưởng của sesan 3 đang còn rất khó khăn, chưa có điện thắp sáng, trong đó bản Dip nằm ở phía hạ lưu công trình thuộc vùng sâu, vùng xa của xã Ia Mơ Nong thuộc quy hoạch lòng hồ Sê San 3A nên sẻ di cư đến vùng Bằng Lăng là khu tái định cư của dự án.
Các yếu tố ảnh hưởng môi trường của hệ thống thủy điện Sê San 3A
Theo tính toán trong thiết kế khi làm thủy điện Sê San 3 đến Sê San 4 chừng 30km (dọc triền sông), khoảng cách này sẽ đẩy cột nước dâng cao và như vậy khi thực thi dự án Sê San 4 sẽ phải xây dựng một dập dâng lên cao với chi phí tốn kém, thi công khó khăn và hiệu quả thấp; do vậy Chính phủ phê duyệt cho đầu tư xây dựng thêm một nhà máy công suất 108MW nằm giữa khoảng cách từ Sê San 3 đến Sê San 4, mang tên mới là Sê San 3A.
Nhà máy thủy điện Sê San 3A thuộc địa phận xã Ia Khai, huyện Iagrai, tỉnh GiaLai và xã MơRai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Nhà máy được khởi công vào tháng 4/2003 với tổng vốn đầu tư 1.864 tỷ đồng do Công ty cổ phần đầu tư và phát triển điện Sê San 3A làm chủ đầu tư và đơn vị thi công là Tổng Công ty Sông Đà. Nhà máy Thủy điện Sê San 3A đã hoàn thành đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 62 ngày Cách mạng tháng 8 thành công và Quốc khánh 2/9/2007. Đến nay, Thủy điện Sê San 3A đã góp vào lưới điện quốc gia trên 300 triệu kW/h điện, đảm bảo hoạt động an toàn, chất lượng. Với chiều cao đập 35 m, dung tích hồ chứa 80,6 triệu m3 nước nên độ bao phủ của hồ chiếm diện tích tự nhiên lớn, làm ảnh hưởng môi trường sinh thái tự nhiện cũng như xã hội trong vùng.
Cũng như hồ thủy điện Yali, các vùng bị ngập nước thuộc hồ thủy điện Se San 3 và Sê San 3A cũng ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các khu hệ véc tơ truyền bệnh, đặc biệt là quần thể muỗi Anopheles.
Các yếu tố ảnh hưởng môi trường của hệ thống thủy điện Sê San 4
Vị trí, giới hạn và quy mô của hồ thủy điện Sê San 4
Thủy điện Sesan 4 là bậc thang cuối cùng trên sông Sê San trong địa phận Việt Nam, tuyến công trình vận hành gần biên giới Việt Nam - Campodia, thuộc địa phận xã IaO và xã Ia Khai thuộc huyện Iagrai (tỉnh Gia Lai) và xã Moray thuộc huyện Sa thầy (tỉnh Kon Tum), cách thị xã Pleiku 70km về phía Tây, cách thị trấn huyện Iagrai 50km về phía Đông theo tỉnh lộ 664. Hồ chứa Sê San 4 có dung tích 264,16 triệu m3
Ảnh hưởng môi trường kinh tế-xã hội vùng hồ thủy điện Sê San 4
Vùng hồ chứa Sê San 4 nằm trong địa phận hành chính 2 tỉnh Gia Lai (bờ bên trái) và Kon Tum (bờ bên phải). Liên quan đến vùng bị ảnh hưởng của công trình gồm 3 xã Ia Or, Ia Khai huyện Iagrai (Gia Lai) và xã Moray huyện Sa Thầy (Kon Tum). Kết quả khảo sát cho thấy, tổng số dân cư bị ảnh hưởng ngập có tới 61 hộ với 244 nhân khẩu, trong đó phải tái định cư 58 hộ và 238 khẩu gồm 3 hộ (5 khẩu) thuộc xã Ia Or và 57 hộ thuộc làng Nú của xã Ia Khai, huyện Iagrai, tỉnh GiaLai. Dân cư phần đông thuộc dân tộc Giarai, sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp, săn bắt, cuộc sống người dân nghèo nàn, lạc hậu, tình trạng thiếu ăn phổ biến; trình độ dân trí thấp, nền kinh tế du canh vẫn phổ biến. Khu tái định cư mới cho 238 khẩu của làng Nú xã Ia Khai huyện Iagrai nằm trên trục đường nối tỉnh lộ 664 với thủy điện sesan 3, cách làng cũ 1km về phía nam. Điều kiện kinh tế của các hộ tái định cư cực kì khó khăn, chỉ có nhà ở tạm, cuộc sống chưa ổn định.
Trong toàn khu vực nghiên cứu có 1 trung tâm y tế cấp huyện nằm ở thị trấn Iagrai và 7 trạm y tế xã, 82 giừơng bệnh (trong đó bệnh viện huyện 39 giường), 72 cán bộ y tế, 14 bác sĩ. Bệnh thường gặp là sốt rét, sốt xuất huyết. Các điều kiện về khám chữa bệnh còn thiếu thốn, dụng cụ y tế, thuốc chữa bệnh còn thiếu. Nền giáo dục mất cân đối, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu giáo viên và trang thiết bị giảng dạy, chỉ có thể phổ cập đến cấp tiểu học.
Ảnh hưởng môi trường sinh thái của vùng hồ thủy điện Sê San 4
Diện tích đất đai ngập vùng hồ Sê San 5.841ha, trong đó có 537,47 ha đất nông nghiệp chủ yếu thuộc xã Ia Or và Ia Khai huyện Iagrai (Gia Lai). Diện tích đất rừng bị ngập là 1699,28 ha, chủ yếu thuộc xã Moray, huyện Sa Thầy (Kon Tum), diện tích đất bị ngập còn lại thuộc vùng đồinúi. Lưu lượng nước đảm bảo mùa kiệt xả về hạ lưu và điều tiết ở hồ Sê San 4 là 195,1m3/s, lưu lượng lớn nhất xả về hạ lưu nhà máy trong mùa kiệt khi thủy điện Sê San 4 phát công suất là 719m3/s, mực nước xả cao nhất 155,2m, mực nước xả thấp nhất 150m. Sự tồn tại của các hồ chứa lớn đã làm thay đổi đáng kể chế độ dòng chảy của sông Sê San, dòng chảy mùa lũ được giảm bớt, dòng chảy mùa kiệt được tăng lên so với khi chưa có hồ chứa. Khi nhà máy phát điện với công suất cao, lưu xả 719m3 lớn gấp 2 lần lưu lượng trung bình năm và gấp 6-7 lần lưu lượng mùa kiệt trong sông thiên nhiên. Sự thay đổi dòng chảy trên sông Sê San do hoạt động của thủy điện và xả lũ gây nhiều ảnh hưởng cho các yếu tố môi truờng và xã hội.
Ảnh hưởng môi trường sinh thái hệ thống hồ thủy điện Sê San đến sự lan truyền sốt rét
Hệ thống thủy điện trên sông Sê San trong địa phận GiaLai gồm 4 công trình lớn là Công trình thủy điện Yali, Sê San 3, Sê San 3A và Sê San 4 tạo nên hệ thống liên tục theo kiểu bậc thang để phát triển thủy điện theo quy trình như sau:
- Hồ chứa Yali xả xuống tạo nguồn nước cung cấp cho hồ chứa Sê San 3.
- Thủy điện Sê San 3 đến Sê San 4 kéo dài chừng 30km (dọc triền sông), khoảng cách này sẽ đẩy cột nước dâng cao và như vậy khi thực thi dự án Sê San 4 sẽ phải xây dựng một dập với chi phí tốn kém, thi công khó khăn và hiệu quả thấp. Do vậy, cần xây dựng thêm một nhà máy công suất 108MW nằm giữa khoảng cách từ Sê San 3 đến Sê San 4 là Sê San 3A.
- Sê San 4 là nấc thang cuối cùng của thủy điện trên sông Sê San, toàn bộ nước xả từ thượng lưu được đưa xuống hạ lưu và đến hồ chứa Sê San 4. Để giải quyết vấn đề xả lũ của sesan 4, Công ty xây dựng điện 1 đã khảo sát và dự định sẻ xây dựng hồ điều tiết chứa 199 triệu m3 nước với công suất 135 MW dọc chiều dài sông cách sesan 4;15km thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Theo báo cáo sáu tháng đầu năm 2011 của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, việc phát triển thủy điện Tây Nguyên có ý nghĩa kinh tế-xã hội rất lớn nhưng cũng đồng thời tác động tiêu cực đến môi trường như nắn dòng chảy, xả lũ gây tổn hại đến đời sống người dân. Dù đã kiểm tra, kiến nghị nhiều lần nhưng vẫn còn tình trạng chủ đầu tư né tránh trách nhiệm, chưa tập trung giải quyết các vấn đề đền bù giải tỏa, tái định canh định cư, còn nhiều hộ dân chưa nhận được đất tái định canh hoặc nhận đất xấu, có độ dốc cao không sản xuất được hoặc giá đền bù thấp so với giá thực tế. Các công trình thủy lợi phục vụ tái định canh, định cư còn kém, nhà ở không phù hợp với phong tục tập quán của đồng bào dân tộc, các dự án tái định cư đều thiếu quỹ đất cho việc chia tách hộ. Theo Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu-Đại học Cần Thơ, các nhà đầu tư đều nói thủy điện có vai trò điều tiết, ngăn lũ, nhưng thực tế các thủy điện chỉ chú trọng đến tính lợi ích, hiệu quả phát điện; còn việc phòng ngừa lũ thì không chú trọng. Các thủy điện ngăn dòng, tạo hồ giữ nước - tài nguyên quốc gia, là tài nguyên thì phải được chia sẻ bình đẳng. Vào mùa khô các hồ thủy điện giữ nước lại cho riêng mình, mùa lũ thì xả ồ ạt mà không có quy trình nghiêm ngặt, phối hợp đồng bộ. Chỉ thông báo trước 2 giờ dân không chuẩn bị kịp, hiện chưa có đầu mối nào điều phối quy trình xả lũ vận hành hồ thủy điện một cách nghiêm ngặt. Đây là một nguy cơ rất lớn khi đã chú trọng phát triển điện nhưng các yêu cầu về an toàn chưa được cấp thẩm quyền đặt ra nghiêm túc.
Sinh cảnh toàn khu thay đổi nhiều so với ban đầu khi chưa xây dựng, tổng diện tích rừng bị ngập cho các khu xây dựng là 2248,78 ha rừng bị phá và ngập trong lòng hồ. Hơn 4000 ha đất trồng bị ngập trong lòng hồ hoặc dùng để xây dựng nhà máy. 70km dòng chảy tự nhiên theo đường chim bay đã chuyển thành hồ chứa hoặc dòng chảy qua cống. Dân sinh sống ở khu lòng hồ trước đây được di chuyển đến vùng xung quanh bờ hồ, hầu hết là người đồng bào. Các điểm dân sinh sống chịu ảnh hưởng trực tiếp từcông trình xây dựng thủy điện cần chú ý: là xã IaPhi, xã Ia Mơ Nông huyện Chupah chịu ảnh hưởng trực tiếp từ đập thủy điện Yali và Sesan 3. Làng Doch1, Doch 2 và Dip đã tái định cư đến vùng Bằng Lăng xã Ia Mơ Nong huyện chupah; Làng Nú của huyện Ia Khai và làng Bi của xã Ia Or huyện Iagrai. Tổng số người đang sinh sống tại các vùng trực tiếp chịu ảnh hưởng trên ước tính khoảng 1000-2000 người. Số nhân viên làm việc trong 4 công trình thủy điện tại địa bàn Gia Lai là 670, đa số họ không sinh sống ở khu vực quanh hồ mà định cư ở thị trấn huyện hoặc thành phố Pleiku.
Điều lưu ý là bệnh sốt rét hiện nay vẫn đang rất phổ biến ở các vùng dân cư sinh sống quanh hồ, những người dân này vẫn giữ nguyên thói quen là đốt rùng làm rẫy, ít thích nghi với các công việc mà ban đền bù tạo điều kiện cho họ. Ngoài các Công trình thủy điện chính Yali, Sê San3, Sê San3A, Sê San 4; dọc dòng sông sesan còn vô số các thủy điện nhỏ của các doanh nghiệp tư nhân góp phần làm môi trường sinh thái quanh khu vực hồ thủy điện bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Yêu cầu nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến quần thể Anopheles
Việc xây dựng nhiều công trình thủy điện trên dòng sông Sê San làm thay đổi môi trường sinh thái, tác động đến các quần thể muỗi Anopheles và tình hình mắc sốt rét ở cộng đồng sinh sống khu vực hồ, tuy nhiên cho đến nay rất ít công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này.
Phạm vi hệ thống hồ thủy điện sông Sesan bao phủ một số huyện của 2 tỉnh Gia Lai, Kon Tum là những trọng điểm sốt rét của cả nước, nguy cơ bùng nổ sốt rét rất cao. Việc nghiên cứu véc tơ truyền bệnh sốt rét, tình hình sốt rét và các biện pháp can thiệp khu vực hồ thủy điện sẽ mang lại những cơ sở khoa học chính xác để đề xuất biện pháp phòng chống sốt rét có hiệu quả, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng ở các vùng có phơi nhiễm sốt rét cao.
Cơ sở nghiên cứu các biện pháp can thiệp
Biện pháp can thiệp theo thời tiết
Vào mùa khô: sự truyền bệnh chủ yếu xuất hiện vào mùa mưa, nhưng thực tế cho thấy bệnh cũng diễn ra vào suốt mùa khô, vì mùa khô đáy sông khô cạn dần và những vũng nước nhỏ hình thành là địa điểm lý tưởng cho bọ gậy phát triển (do dòng sông Sesan đã được ngăn đập, nước của sông chính đã chuyển vào hồ, dòng chảy tự nhiên trước đây vào mùa khô cạn kiệt và xuất hiện nhiều vũng nước tù đọng) chính là một trong những nguyên nhân khiến cho muỗi sinh sản trong mùa khô và gây ra mức độ lan truyền dịch bệnh sốt rét.
Biện pháp can thiệp tác động đến nhà quản lí thủy điện cần phải điều chỉnh lưu lượng dòng chảy tự nhiên sao cho trong suốt mùa khô không có các vũng nước tù đọng để muỗi không còn nơi sinh sản. Bằng cách này chúng ta có thể loại trừ được sự lây nhiễm bệnh trong mùa khô, thì sẻ hạn chế lượng vecto truyền bệnh vào mùa mưa.
Vào mùa mưa: chúng ta có thể sử dụng hóa chất diệt muỗi có hiệu lực tồn lưu theo chỉ định `thường quy vào trước các thời điểm đỉnh bệnh sốt rét hàng năm.
Biện pháp can thiệp sinh học
Vòng đời phát triển của muỗi trải qua 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng (bọ gậy), thanh trùng (quăng), trưởng thành. 3 giai đoạn đầu sống dưới nước, giai đoạn muỗi trưởng thành sống tự do ở môi trường. Các giai đoạn sống dưới nước là thức ăn cho nhiều loài sinh vật khác. Các đập nước thủy điện tồn tại quanh năm, chỉ xả lũ vào mùa mưa, 1 phần nước lưu thông, phần lớn là nước tồn quanh năm nên qua thời gian sẻ tạo nên quần xã ổn định. Nuôi các loài động vật thủy sinh là thiên địch của bọ gậy, quăng, muỗi trưởng thành ở khu lòng hồ hoặc bờ hồ, sẻhạn chế nhiều sự phát triển của véc tơ. Giai đoạn ấu trùng của muỗi có một số vi sinh vật gây bệnh, mà các vi sinh vật này không làm ảnh hưởng đến các loài cá và sinh vật thủy sinh, vì vậy cũng an toàn cho môi trường.
- Dùng thiên địch như nuôi cá hoặc lươn nhỏ trong bể đập nước để tiêu diệt bọ gậy. Nuôi chuồn chuồn, các ấu trùng chuồn chuồn trong nước ăn bọ gậy, còn chuồn chuồn trưởng thành bắt muỗi trong không trung. (Chuồn chuồn chỉ sống ở khu vùng hồ hoặc bờ hồ, xung quanh là rừng núi không phải là môi trường sống của chúng). Thả Mesocyclops vào vùng hồ đập nước để diệt lăng quăng. Dùng các côn trùng thủy sinh thuộc họ corixidae để diệt lăng quăng trong hồ. Nuôi ếch ở vùng bờ hồ vừa làm nguồn thức ăn cho dân địa phương, ếch vừa tiêu diệt được muỗi trưởng thành khi muỗi mới hình thành từ mặt nước bay lên hoặc muỗi cái đến vùng hồ đập nước thủy điện để đẻ trứng.
- Dùng vi sinh vật như mấm M. anisopliae và B. bassiana gây bệnh tầm vôi khiến ấu trùng muỗi chết trước khi hóa thành nhộng và con trưởng thành. Dầu tổng hợp (ShellSol T) để phân tán 2 loại nấm này nổi lên mặt nước của đập thủy điện, khiến ấu trùng muỗi khi kiếm mồi trên bề mặt nước sẽ bị tiêu diệt khi ăn phải.
Biện pháp quản lý môi trường
Quản lý môi trường nhằm thay đổi môi trường để ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự sinh sản của muỗi và ngăn chặn sự tiếp xúc của người với véc tơ bằng việc hạn chế diện tích bề mặt các hồ chứa nước của đập thủy điện để hạn chế môi trường phát triển ấu trùng của véc tơ truyền bệnh.
Cải tạo môi trường
Là quá trình thay đổi lâu dài để giảm môi trường sống của ấu trùng muỗi, chẳng hạn lắp đặt hệ thống mái che phần bờ hồ ở các đập nước thủy điện, thu nhỏ diện tích lòng hồ để hạn chế không gian cho muỗi đẻ trứng và sinh sống…
Can thiệp vào môi trường
Thay đổi tạm thời môi trường sống của vecto bao gồm quản lý các hồ chứa như thường xuyên thay nước, quản lý hoặc loại bỏ các cây bụi, cỏ dại ven bờ đập…
Thay đổi nơi sống hoặc tập quán người dân
Các hoạt động làm giảm tiếp xúc giữa người với véc tơ truyền bệnh như lắp đặt lưới chắn muỗi ở cửa sổ, cửa ra vào và các lối đi vào nhà ở của người dân sinh sống trong khu vực thủy điện, và sử dụng màn khi ngủ cả ngày hoặc ban đêm, bao gồm cả vệ sinh môi trường và tuyên truyền vận động phòng chống. Các biện pháp trên phải có hiệu quả và phù hợp với thực tế địa phương.
Biện pháp can thiệp theo chiến lược lâu dài
Chiến dịch phòng chống sốt rét phù hợp với từng điều kiện địa phương là rất quan trọng, do đó cần thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ y tế cơ sở đủ mạnh để kiểm soát dịch bệnh nói chung và sốt rét nói riêng. Trước hết, cần thu thập và nắm bắt thông tin, bổ sung kiến thức và cập nhật những thông tin trước đó cho cán bộ y tế cơ sở. đồng thời có sự hoạch định chiến lược phòng chống véc tơ dựa trên các kiến thức về dịch tễ học truyền bệnh sốt rét, sinh học, sinh thái học, tập tính, di truyền học vectơ, môi trường, kinh tế xã hội cũng như nguồn lực sẵn có tại các trung tâm y tế. Từ đó cán bộ y tế cơ sở có thể dễ dàng tiếp cận các hướng dẫn từ cơ quan chỉ đạo để thực hiện hiệu quả và phù hợp với các nội dung sau
- Phân vùng kiểm soát.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông.
- Phát triển năng lực cán bộ thực hiện công tác phòng chống ở địa phương và trung tâm.
- Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ y tế cơ sở.
- Cơ sở vật chất hạ tầng cho công tác huấn luyện, đánh giá hiệu quả và việc thực hiện các biện pháp phòng chống ở khu vực vùng hồ thường xuyên.
- Triển khai nhanh các phương pháp mới và cải tiến thay thế cho các phương pháp hiện thời.
- Nếu các loại vacxin phòng ngừa lây nhiễm đã nghiên cứu thành công thì nên có hướng cho việc sử dụngkịp thời để khống chế ký sinh trùng và vectơ sốt rét
Biện pháp can thiệp phối hợp
- Sử dụng đồng thời hoặc liên tiếp nhiều phương pháp cho cùng một loại vectơ nhằm tăng cường hiệu quả và hiệu lực cho công tác phòng chống.
- Đảm bảo sự phối hợp giữa các nhà nghiên cứu, nhà quản lí thủy điện, trung tâm phòng chống, y tế cơ sở và chính quyền địa phương.
- Có sự tham gia trực tiếp của cả cộng đồng đối với từng biện pháp thực hiện khác nhau.
- Giáo dục y tế nhằm nâng cao kiến thức và phát triển kĩ năng cũng như huy động toàn xã hội trong công tác phòng chống sốt rét.
- Phối hợp với các ban ngành liên quan nhằm đóng góp các nguồn lực.
- Cần phân tích tình hình chiến lược phòng chống vectơ của chương trình quốc gia phòng chống sốt rét, phát triển cơ chế quản lý thông tin, nâng cao năng lực, các nguyên tắc và hoạt động, phát triển các trang thiết bị giúp cho việc thực hiện, đẩy mạnh phân cấp hoá và hợp tác hoá giữa cán bộ y tế cơ sở và cán bộ trung tâm, tăng cường sự tham gia phối hợp của cộng đồng và các ban ngành trong công tác phòng chống vectơ sốt rét.