Hội nghị giao ban sơ kết công tác phòng chống sốt rét 6 tháng đầu năm 2011 của Dự án Quốc gia phòng chống sốt rét đã được triển khai ở các khu vực miền Bắc (Hà Nội) ngày 25/7/2011, khu vực miền Trung-Tây Nguyên (Quy Nhơn) ngày 27/7/2011 và Nam bộ-Lâm Đồng (Đà Lạt) ngày 29/7/2011. Những kết quả phòng chống sốt rét tiếp tục đạt được trong 6 tháng đầu năm sẽ tạo đà cho việc triển khai Chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét trong 5 năm tới (2011-2015) và tầm nhìn đến 2020.
Tình hình sốt rét
Theo số liệu thống kê của Dự án Quốc gia phòng chống sốt rét trong 5 tháng đầu năm 2011, cả nước có 17.621 bệnh nhân sốt rét (BNSR), giảm 12.8% so với cùng kỳ năm 2010; trong đó khu vực miền núi phía Bắc BNSR giảm 3.36%, khu vực đồng bằng trung du Bắc bộ giảm 2.29%, khu IV cũ giảm 18.85%, khu vực ven biển miền Trung giảm 31.77%, khu vực Tây Nguyên giảm 26.46%, khu vực đồng bằng sông Cửu Long giảm 12.45% và khu vực miền Đông Nam bộ tăng 25.94%.
Số người nhiễm ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) cả nước là 5.717 giảm 7.12% so với cùng kỳ; trong đó khu vực miền Bắc giảm 13.97%, khu vực ven biển miền Trung giảm 24.82%) khu vực Tây Nguyên giảm 20.62%, khu vực đồng bằng sông Cửu Long giảm 19.41% và khu vực miền Đông Nam bộ tăng 51.27%.
 |
TS. Hồ Văn Hoàng - Phó Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn giới thiệu thành phần đại biểu tham dự Hội nghị |
Số ca sốt rét ác tính (SRAT) cả nước là 62 tăng 24% và tử vong sốt rét (TVSR) là 7 tăng 16.7% so với cùng kỳ 2010.
Đánh giá tình hình sốt rét cả nước trong 6 tháng đầu năm 2011, tuy sốt rét giảm ở hầu hết các khu vực nhưng miền Trung-Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ vẫn là nơi có số mắc sốt rét cao nhất, đặc biệt là miền Đông Nam bộ gia tăng cả BNSR (25.94%) và KSTSR (51.2750); số tử vong sốt rét vẫn tập trung chủ yếu ở hai khu vực này ở các nhóm dân di biến động khó kiểm soát. Một điều đáng lưu ý là số mắc sốt rét gia tăng cục bộ ở cả những vùng nhiều năm sốt rét giảm thấp (xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận) thuộc vùng sốt rét có nguy cơ quay trở lại do không kiểm soát được ca bệnh sốt rét ngoại lai từ nơi khác về; đây có thể là bài học cho việc giám sát dịch tễ sốt rét, không chỉ ở vùng trọng điểm mà còn ở vùng không phải trọng điểm sốt rét.
 |
PGS.TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn phát biểu tại Hội nghị |
Hoạt động phòng chống sốt rét 6 tháng đầu năm 2011Ban Điều hành Dự án quốc gia PCSR đã ký hợp đồng trách nhiệm với các bộ, ngành và địa phương; cung cấp đủ thuốc, hóa chất, vật tư, kinh phí để kịp thời triển khai các hoạt động phòng chống sốt rét theo kế hoạch đã đề ra.
Các hoạt động phòng chống sốt rét tập trung vào giám sát dịch tễ, giám sát véc tơ và phòng chống véc tơ, giám sát chẩn đoán điều trị và thuốc sốt rét, đào tạo nâng cao năng lực cán bộ y tế trong phòng chống sốt rét, truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét. Đặc biệt trong các hoạt động này Dự án đã cấp số liều thuốc tự điều trị cao gấp 4,5 lần số thuốc cấp điều trị bệnh nhân sốt rét trong cả nước, trong đó 3.145 sốt rét do P.falciparum đều được điều trị thuốc phối hợp có gốc Artemisinine (ACT) chiếm 95.5%; trong các chiến dịch phòng chống véc tơ, đã phun tồn lưu hóa chất và tẩm màn bảo vệ co 2.431.291 dân thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng, tuy nhiên độ bao phủ biện pháp can thiệp mới chỉ đạt 22% dân số bảo vệ so với kế hoạch năm 2011 do kinh phí được cấp muộn hơn so với các năm trước. Chiến dịch truyền thông hưởng ứng ngày sốt rét thế giới 25-4-2011 với chủ đề “Tiến tới loại trừ sốt rét” được phát động rầm rộ trên phạm vi toàn quốc với gần 12.000.000 lượt người được tiếp nhận thông điệp truyền thông.
 |
TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương báo cáo sơ kết tình hình sốt rét 6 tháng đầu năm 2011 trong cả nước |
Các khó khăn tồn tại
Khó khăn lớn nhất trong phòng chống sốt rét hiện nay là việc kiểm soát dân di biến động (dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới) và chưa có biện pháp phòng chống sốt rét khả thi cho các nhóm dân này. Đặc thù sốt rét miền Trung-Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ phức tạp, sự giảm sốt rét ở các khu vực này không mang tính bền vững nguy cơ sốt rét quay trở lại hoặc bùng phát thành dịch rất cao; đặc biệt là sự hiện diện của véc tơ truyền bệnh chính (An.minimus, An.dirus) ở các vùng sốt rét giảm thấp cùng hiện tượng ký sinh trùng sốt rét P.falciparum có xu hướng lan rộng ở nhiều vùng.
Về chuyên môn kỹ thuật một số tỉnh còn ít quan tâm trong chẩn đoán và điều trị sốt rét, cán bộ y tế tuyến huyện ít được tập huấn phác đồ của Bộ mới ban hành, một số nơi còn sử dụng thuốc Artemisinineđơn thuần trong khi Bộ Y tế đã có chỉ định điều trị phối hợp (ACT). Công tác thu thập thông tin, báo cáo ở các tuyến còn chậm, nhiều tỉnh chưa triển khai thực hiện hệ thống biểu mẫu báo cáo mới; chất lượng giám sát dịch tễ hạn chế, chất lượng phòng chống véc tơ và chẩn đoán điều trị bệnh nhân sốt rét chưa cao. Công tác truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét chưa đủ để người dân chuyển đổi từ nhận thức sang hành vi phòng chống sốt rét nên chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành, số mắc và số chết sốt rét tập trung chủ yếu ở nhóm dân này.
 |
Toàn cảnh Hội nghị |
Trọng tâm hoạt động phòng chống sốt rét cuối năm 2011
Trong 6 tháng cuối năm 2011 các hoạt động phòng chống sốt rét tại các khu vực tiếp tục được tiến hành nhằm đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu sau.
Phòng chống sốt rét chủ động tích cực tại các vùng sốt rét lưu hành, triển khai loại trừ bệnh sốt rét ở các vùng sốt rét đã giảm thấp nhiều năm; đến năm 2011 tỷ lệ mắc sốt rét đạt dưới 0.55/1.000 dân, tỷ lệ chết sốt rét dưới 0.02/100.000 dân. Bước đầu triển khai loại trừ sốt rét tại các tỉnh đã đạt được các tiêu chí để chuyển từ phòng chống sốt rét sang loại trừ sốt rét, góp phần chăm sóc sức khỏe nhân dân và sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước.
Đảm bảo cho người dân được tiếp cận các dịch vụ chẩn đoán sớm bệnh sốt rét, điều trị kịp thời, hiệu quả thông qua các cơ sở y tế nhà nước và y tế tư nhân đạt trên 80% ca bệnh sốt rét lâm sàng đến khám bệnh và xét nghiệm tại các cơ sở y tế; trên 80% người có sốt ở vùng sốt rét lưu hành được xét nghiệm tìm KSTSR; trên 95% người nhiễm KSTSR P.falciparum được điều trị bằng thuốc phối hợp ACT; trên 62% BNSR được điều trị đúng phác đồ và đủ liều. Đảm bảo diện bao phủ cho dân có nguy cơ mắc sốt rét bằng các biện pháp phòng chống muỗi truyền bệnh thích hợp với trên 90% dân có màn được chỉ định tẩm màn hóa chất diệt muỗi, trên 97% hộ gia đình trong vùng chỉ định được phun tồn lưu hóa chất diệt muỗi. Nâng cao tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ phòng chống sốt rét và tăng cường huy động cộng đồng tham gia thông qua truyền thông GDSK phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét. Trên 92% dân số vùng sốt rét lưu hành nắm được các thông điệp truyền thông và trên 88% người dân ngủ màn. Nâng cao năng lực hệ thống giám sát dịch tễ sốt rét với trên 95% số thôn bản có cán bộ y tế thôn hoạt động PCSR, phát hiện được ổ dịch trong vòng 2 tuần từ khi khởi phát và triển khai biện pháp can thiệp trong vòng 1 tuần kể từ khi nhận được báo cáo. Triển khai các hoạt động loại trừ sốt rét tại 16 tỉnh có sốt rét lưu hành nhẹ, ban hành các hướng dẫn và tập huấn về Chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét.