Cũng như nhiều năm trước đây, các chỉ số sốt rét ở nước ta trong 2013 đều giảm thấp so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, kết quả này chưa thật sự mang tính bền vững do sốt rét vẫn gia tăng cục bộ và nguy cơ xảy dịch còn cao ở một số vùng trọng điểm, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức trong phòng chống và loại trừ sốt rét.
Tình hình sốt rét năm 2013 so với 2012: giảm toàn quốc, cao trọng điểm
Các chỉ số sốt rét 11 tháng/2013 so với cùng kỳ
Theo báo cáo của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, tình hình sốt rét cả nước 11 tháng năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012: số bệnh nhân sốt rét giảm 18,47% (32.498/39.862), số ca xác định có ký sinh trùng sốt rét giảm 12,40% (15.303/17.469), số bệnh nhân sốt rét ác tính giảm 41,61% (80/137), số tử vong sốt rét giảm 16,67% (5/6), không có dịch sốt rét xảy ra. Theo báo cáo của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, tình hình sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên 11 tháng năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012: số bệnh nhân sốt rét giảm 10,52% (14.475/16.176), số ca xác định có ký sinh trùng sốt rét giảm 6,10% (12.305/13.104), số bệnh nhân sốt rét ác tính giảm 46,91% (43/81), số tử vong sốt rét giảm 4 ca (2/6) ở Phú Yên (1 ca) và Khánh Hòa (1 ca). Như vậy, trong năm 2013 chúng ta không chỉ đạt và vượt chỉ tiêu phòng chống và loại trừ sốt rét đề ra mà còn duy trì được tính ổn định trong việc khống chế tình hình sốt rét từ gần 10 năm nay (2006-2013).
Chỉ số và cơ cấu chủng loại ký sinh trùng sốt rét
Tuy nhiên khi phân tích ở từng khu vực thì sốt rét vẫn gia tăng cục bộ ở một số vùng trọng điểm, đặc biệt là chỉ số ký sinh trùng sốt rét.
| So sánh tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét ở các khu vực năm 2013 Khu vực | Số tỉnh/thành | Số KSTSR năm 2013 | So sánh tỷ lệ KSTSR giữa các khu vực | Miền Bắc | 28 | 551 | 3,60 | Miền Trung- Tây Nguyên | 15 | 12.051 | 78,75 | Miền Nam | 20 | 2.701 | 17,65 | Tổng cộng | 63 | 15.303 | 100 |
|
Qua dẫn liệu so sánh nêu trên thấy mặc dù tình hình sốt rét giảm trên phạm vi toàn quốc, nhưng số ký sinh trùng sốt rét lại tập trung chủ yếu ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên (78,75%) so với các khu vực khác trong nước như miền Bắc (3,60%) và miền Nam (17,65%). Đây là vấn đề rất cần được quan tâm, vì ký sinh trùng sốt rét là tác nhân gây bệnh và là nguồn bệnh trong khi nhiều vùng sốt rét ở nước ta vẫn còn hiện diện véc tơ truyền bệnh, nên nguy cơ lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét còn cao. Đặc biệt trong 11 tháng năm 2013 khu vực miền Trung-Tây Nguyên có 5/15 tỉnh ký sinh trùng sốt rét gia tăng so với cùng kỳ năm trước như Phú Yên (+ 34,18%), Quảng Nam (34,02%), Ninh Thuận (14,09%), Kon Tum (8,57%) và Gia Lai (+ 0,88%).
Về cơ cấu chủng loại ký sinh trùng sốt rét thường gặp ở Việt Nam: Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax và phối hợp (P.falciparum + P.vivax) cũng có sự khác biệt giữa các vùng miền:
Cơ cấu chủng loại ký sinh trùng sốt rét ở các khu vực năm 2013
Khu vực | Tổng số KSTSR | Cơ cấu chủng loại KSTSR |
P.falciparum | P.vivax | Phối hợp |
Miền Bắc | 511 | 201 (39,33%) | 281 (54,99%) | 29 (5,68%) |
Miền Trung-Tây Nguyên | 12.051 | 6.956 (57,72%) | 4614 (38,29%) | 481 (3,99%) |
Miền Nam | 2.701 | 1.308 (48,43%) | 1.243 (46,02%) | 150 (5,55%) |
Qua dẫn liệu so sánh này thấy miền Bắc P.falciparum (39,33%) thấp hơn P.vivax (54,99%), miền Nam P.falciparum (48,43%) tương đương với P.vivax (46,02%), nhưng miền Trung-Tây Nguyên P.falciparum (57,72%) vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối trong cơ cấu chủng loại ký sinh trùng so với P.vivax 38,29%) !important; Đây là một trong những khó khăn trong công tác điều trị sốt rét vì chủng loại Plasmodium falciparum là chủng ký sinh trùng gây sốt rét ác tính và tử vong sốt rét, đồng thời đang kháng thuốc sốt rét cao trên diện rộng kể cả với các thuốc có hiệu lực cao là một khó khăn thách thức lớn cho khu vực này.
Khó khăn, thách thức trong phòng chống và loại trừ sốt rét
Năm 2013 là năm thứ hai, Việt Nam thực hiện Chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét, những kết quả đạt được trong năm 2013 tuy khả quan nhưng tại các vùng sốt rét trọng điểm chúng ta vẫn còn phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức.
Vùng sốt rét trọng điểm có lan truyền tự nhiên sốt rét cao
Những số liệu thống kê trong năm 2013 cũng như các năm trước đây cho thấy sốt rét tập trung chủ yếu ở một số khu vực trọng điểm: 14 tỉnh ven biển miền Trung(từ Thanh Hóa đến Bình Thuận), 5 tỉnh Tây Nguyên (Gia lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng) và Đông Nam bộ (chủ yếu là Bình Phước) có nhiều vùng chưa cắt đứt được sự lan truyền tự nhiên sốt rét do có số lượng lớn mầm bệnh (ký sinh trùng sốt rét), có sự hiện diện của véc tơ truyền bệnh chính (muỗi An.minimus, An.dirus); đặc điểm địa hình miền Trung hẹp, vùng đồng bằng giáp với vùng rừng núi nên gianh giới giữa các vùng sốt rét không có sự khác biệt lớn, thuận lợi cho sự giao lưu vào vùng sốt rét lưu hành nên khả năng phơi nhiễm sốt rét cao. Đặc biệt các khu vực này chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thường xuyên phải đối mặt với thiên tai, bão lụt là điều kiện để muỗi truyền bệnh sốt rét phát sinh và phát triển. Hàng năm các biện pháp phòng chống sốt rét đều ưu tiên cho những khu vực này, nhưng chưa tạo được yếu tố phòng chống sốt rét bền vững, nguy cơ xảy dịch và nguy cơ sốt rét quay trở lại còn cao.
 |
Các đối tượng di biến động vào vùng sốt rét khó kiểm soát chủ yếu là dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới… hầu như chưa có biện pháp phòng chống hữu hiệu |
Khó khăn trong phòng chống sốt rét cho dân di biến động
Những vùng sốt rét trọng điểm cũng là vùng dân tộc ít người, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn (trên 50% hộ nghèo), nghề nghiệp người dân thường gắn liền với trồng nương rẫy, khai thác lâm sản ở trong rừng nơi có sốt rét lưu hành nặng nên dễ nhiễm bệnh sốt rét. Các đối tượng di biến động vào vùng sốt rét khó kiểm soát chủ yếu là dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới… hầu như chưa có biện pháp phòng chống hữu hiệu vì các biện pháp phòng chống sốt rét thường quy chỉ có hiệu quả bảo vệ những vùng dân cư ổn định nên hiện nay số mắc và số chết sốt rét vẫn tập trung chủ yếu ở các nhóm dân này.
Khó khăn trong chuyên môn kỹ thuật
Tại các vùng trọng điểm sốt rét, ký sinh trùng sốt rét gia tăng cục bộ, cùng với tình hình kháng thuốc sốt rét, muỗi tăng sức chịu đựng hóa chất là những khó khăn hạn chế thành quả sốt rét. Đặc biệt là tình trạng ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum đa kháng thuốc sốt rét và đã kháng cả với thuốc sốt rét có hiệu lực cao (Artemisinine) có nguy cơ lan rộng nếu không có biện pháp kiểm soát chặt chẽ.
Kinh phí phòng chống sốt rét năm 2014 bị cắt giảm 50%
Theo kế hoạch kinh phí phòng chống sốt rét năm 2014 là 115 tỷ đồng, nhưng đã bị cắt giảm 50% chỉ còn 56 tỷ đồng do khó khăn về kinh phí của chương trình mục tiêu y tế quốc gia, điều này đồng nghĩa với việc diện bảo vệ phòng chống sốt rét bị thu hẹp (chỉ ưu tiên tập trung cho vùng sốt rét nặng và vừa). Hiện nay chúng ta phải vừa phòng chống sốt rét (ở các vùng sốt rét trọng điểm), vừa loại trừ sốt rét (ở các vùng sốt rét giảm thấp), sự cắt giảm kinh phí sẽ khó khăn cho việc áp dụng các biện pháp mang tính bền vững; điều tiết kinh phí cũng như chủ động thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét bổ sung (ngoài kế hoạch) cho khu vực trọng điểm có tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét cao, nhất là các vùng liên tục bị ảnh hưởng thiên tai, bão lụt hàng năm như miền Trung-Tây Nguyên.
Trước những thành quả đạt được cũng như những khó khăn thách thức phòng chống sốt rét vẫn là ưu tiên hàng đầu tại các vùng trọng điểm; đặc biệt là chẩn đoán sớm, phát hiện ký sinh trùng sốt rét tại các điểm kính hiển vi, điều trị kịp thời ca bệnh, đồng thời lồng ghép hoạt động các mục tiêu chương trình, thiết lập các điểm điều trị ở vùng có nguy cơ kháng thuốc cao, diện bao phủ hóa chất phải đạt chất lượng kỹ thuật, các thông điệp truyền thông ngắn gọn dễ hiểu với một số nhóm đối tượng di biến động khó kiểm soát và xây dựng kế hoạch ngăn chặn sốt rét kháng thuốc.