9 tháng đầu năm 2012, tình hình sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên tăng đồng loạt các chỉ số bệnh nhân sốt rét, ký sinh trùng sốt rét, sốt rét ác tính và tử vong sốt rét. Hoạt động của Viện và các tỉnh trong khu vực tập trung xác định nguyên nhân sốt rét gia tăng, nâng cao chất lượng biện pháp phòng chống sốt rét và khống chế nguy cơ xảy dịch.
Theo số liệu thống kê của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn 9 tháng đầu năm 2012, các chỉ số sốt rét ở miền Trung-Tây Nguyên tăng đồng loạt so với cùng kỳ năm 2011 ở nhiều tỉnh trong khu vực.
Chỉ số mắc sốt rét: Bệnh nhân sốt rét (BNSR) và Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR)
Toàn khu vực BNSR tăng 12,25% (12.043/10.729), KSTSR tăng 30,26%; trong đó miền Trung BNSR tăng 8,55% (6.421/5.915), KSTSR tăng 12,79%; Tây Nguyên BNSR tăng 16,78% (5.622/4.814), KSTSR tăng 53,03%.
10/15 tỉnh tăng cả BNSR và KSTSR và 3/15 tỉnh tăng KSTSR bao gồm:
1.Phú Yên BNSR tăng 79,39% (592/330), KSTSR tăng 86,11% chủ yếu ở 7 huyện Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh, Tây Hòa, Tuy An, Phú Hòa, Sông Cầu.
2.Gia Lai BNSR tăng 45,72% (2.757/1.892), KSTSR tăng 71,30% tập trung ở 10 huyện/thành phố Krông Pa, Kon Chro, Ia Pa, Chư Prông, Ayun Pa, Phú Thiện, Chư Pả, Măng Yang, Đắc Đoa, Plei Ku.
3.Quảng Trị BNSR tăng 17,65% (880/748), KSTSR tăng 3,10% ở 5 huyện/thành phố Hướng Hóa, Đăk Krông, Triệu Phong, Hải Lăng, Đông Hà.
4.Tp. Đà Nẵng BNSR tăng 33,33% (32/24), KSTSR tăng 54,55% ở một số quận/huyện Thanh Khê, Liên Chiểu, Cẩm Lệ do nguồn bệnh ngoại lai nhiễm từ các nơi khác về.
5.Bình Định BNSR tăng 30,09% (415/319), KSTSR giảm -2,56%. Các huyện có BNSR tăng là Tây Sơn, Tuy Phước, Vân Canh, Vĩnh Thạnh và Tp. Quy Nhơn.
6.Khánh Hòa BNSR tăng 7,79% (1.300/1.204), KSTSR tăng 37,20% ở 4 huyện Khánh Sơn, Vạn Ninh, Cam Lâm và Cam Ranh.
7.Đắc Lắc BNSR tăng 3,55% (1.430/1.381), KSTSR tăng 37,21% ở 6 huyện Easup, Eahleo, Eakar, Krông Năng, Krông Pắc và Krông Búc do nhiễm nguồn bệnh lưu hành địa phương và người dân ngủ rẫy.
8.Quảng Bình BNSR tăng 13,81% (890/782), KSTSR tăng 122,22% ở 5 huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa, Bố Trạch, Lệ Thủy và Quảng Ninh.
9.Ninh Thuận BNSR tăng 12,07% (947/845), KSTSR tăng 7,03% ở các huyện Ninh Sơn, Thuận Nam, Ninh Phước, Ninh Hải, Phan Rang.
10.Thừa Thiên-Huế BNSR tăng 0,75% (135/134), KSTSR giảm -21,82%. BNSR tăng rải rác ở các huyện Nam Đông, Hương Trà, Phong Điền, Phú Vang.
11.Đắc Nông BNSR giảm -4,01% (575/599), KSTSR tăng 45,61% do nguồn bệnh nhiễm tại chỗ và dân di cư tự do.
12.Quảng Nam BNSR giảm -15,95 (685/815), KSTSR tăng 44,26%.
13.Kon Tum BNSR giảm -8,70% (860/942), KSTSR tăng 32,69%.
Chỉ có 2/15 tỉnh có chỉ số mắc sốt rét giảm là Bình Thuận (BNSR -26,32 (431/585), KSTSR giảm -41,46%) và Quảng Ngãi (BNSR giảm -11,63% (114/129), KSTSR giảm -27,59%).
Phân tích các chỉ số mắc sốt rét (BNSR, KSTSR) ở các tỉnh có gia tăng sốt rét thấy tình hình sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên không mang tính ổn định, thời điểm này sốt rét giảm, thì thời điểm khác lại tăng lên. Nhiều tỉnh có chỉ số mầm bệnh (KSTSR) cao và tăng đồng thời cùng lúc cả BNSR và KSTSR như các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh miền Trung. Một số tỉnh BNSR thấp nhưng chỉ số KSTSR lại tăng, đây là điều đáng lưu ý vì KSTSR là chỉ số lan truyền khi hầu khắp các vùng sốt rét đều có sự hiện diện của trung gian truyền bệnh chính (muỗi An.minimus, An.dirus). Điển hình là tỉnh Bình Thuận, trong 9 tháng đầu năm 2012 chỉ số mắc sốt rét giảm cả BNSR và KSTSR nhưng hiện nay sốt rét lại đang gia tăng tại sau khi xuất hiện ca tử vong sốt rét nên các đoàn công tác của Viện và của địa phương đang phải tập trung vào các vùng sốt rét có nguy cơ của tỉnh này chỉ đạo thực hiện các biện pháp can thiệp, khống chế sự gia tăng sốt rét.
Nguyên nhân gia tăng số mắc sốt rét vẫn tập trung ở các đối tượng di biến động khó kiểm soát (người dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới…) hoặc sốt rét lan truyền tại chỗ do đặc thù 75% vùng rừng núi miền Trung-Tây Nguyên cũng là vùng có sốt rét lưu hành, người dân chưa có ý thức tự phòng chống khi sống trong vùng sốt rét hoặc giao lưu vào vùng sốt rét lưu hành. Khả năng kiểm soát bệnh nhân sốt rét của màng lưới y tế cơ sở (Trung tâm y tế huyện, Trạm y tế xã, y tế thôn bản) còn hạn chế. Chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét (phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn, điều trị BNSR) chưa đạt yêu cầu, nhất là năm 2012 công tác truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét cho người dân
Sốt rét ác tính (SRAT) và tử vong sốt rét (TVSR)
Số ca sốt rét ác tính toàn miền tăng 10,34% (64/58) so với cùng kỳ, chủ yếu ở miền Trung 87,50% (45/24), nhưng lại giảm ở Tây Nguyên -44,12% (19/34). Có 5 ca tử vong sốt rét, không giảm so với cùng kỳ năm trước (5/5), tập trung ở các tỉnh Phú Yên (2 ca), Khánh Hòa (1 ca), Bình Thuận (1 ca), Bình Định (1 ca).
Trong 5 ca TVSR có 4 ca người lớn và 1 ca trẻ em (6 tuổi) đều biến chứng nặng (sốt rét ác tính thể não hoặc suy đa phủ tạng), phát hiện muộn, chẩn đoán muộn và điều trị muộn; nguyên nhân do bệnh nhân không đến cơ sở y tế để được điều trị sớm và màng lưới y tế cơ sở không kiểm soát được BNSR tại địa phương.
Thời điểm này khu vực miền Trung-Tây Nguyên đang là mùa mưa, đồng thời là mùa truyền bệnh sốt rét dự báo tình hình sốt rét sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, nguy cơ xảy dịch sốt rét cao. Cần chú trọng tăng cường giám sát dịch tễ, phát hiện và điều trị sớm các ca bệnh sốt rét để tránh chuyển biến chứng và tử vong; nâng cao chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét (tẩm màn, phun tồn lưu hóa chất diệt muỗi, điều trị bệnh nhân tại các cơ sở y tế) và truyền thông giáo dục ý thức tự phòng chống sốt rét của người dân (mang theo thuốc tự điều trị và màn/võng tẩm hóa chất) nhất là đối với các đối tượng đi rừng, ngủ rẫy.