Để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, tỉnh Thừa Thiên Huế đã triển khai đề án “Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở” trong giai đoạn năm 2005-2011 nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển. Đây là một vấn đề tất yếu, phù hợp với những thay đổi về kinh tế, xã hộitheo cơ chế của nền kinh tế thị trường, cải cách hành chính, hội nhập quốc tế hiện nay của đất nước.
Thực trạng y tế cơ sở trước giai đoạn 2005-2011
Trước giai đoạn 2005-2011, tỉnh Thừa Thiên Huế có 150 trạm y tế do 9 trung tâm y tế quản lý với 108 bác sĩ, chiếm tỷ lệ 72%. Hầu hết các trạm đều thiếu bác sĩ, đặc biệt tại huyện A Lưới có 15/21 xã, thị trấn chưa có bác sĩ. Các chức danh khác cũng thiếu như chỉ có 57% nữ hộ sinh trung học, 43% nữ hộ sinh sơ học; duy nhất 1 cơ sở có y sĩ y học cổ truyền. Về cơ sở vật chất, 35 trạm y tế được tầng hóa, chiếm tỷ lệ 23%. Các cơ sở còn lại là loại nhà cấp 4, phần lớn đã xuống cấp và nằm trong vùng thấp trủng, thường hay bị ngập lụt.
Đối với thuốc men, trang thiết bị; các trạm chỉ có các loại thuốc thiết yếu phục vụ công tác khám chữa bệnh và sơ cấp cứu ban đầu, truyền thông giáo dục sức khỏe. Hầu hết chưa có trang thiết bị hỗ trợ chẩn đoán, triển khai hoạt động khám chữa bệnh, y học cổ truyền, phòng chống dịch bệnh, truyền thông giáo dục sức khỏe... có hiệu quả.
Trong triển khai các hoạt động y tế, có 69,3% trạm thực hiện khám chữa bệnh ban đầu bảo hiểm y tế; chiếm 34,6% số thẻ bảo hiểm y tế toàn tỉnh; số lượt khám bệnh ngoại trú chiếm tỷ lệ 41,14% toàn tỉnh; có 10,5% trạm có phòng chẩn trị y học cổ truyền. Sản phụ sinh tại trạm chiếm 17,4%; trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ hàng năm đạt trên 96%. Năm 2005, có 27,9% trẻ em suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi; 28,1% trẻ em suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi. Có 29/150 xã, phường, thị trấn với tỷ lệ 19,3% đạt chuẩn quốc gia về y tế; không có trạm y tế đạt chuẩn tiên tiến về y học cổ truyền.
Nguồn lực đầu tư cho các hoạt động của tuyến y tế cơ sở trước giai đoạn 2005-2011 còn nhiều hạn chế trong việc triển khai chức năng nhiệm vụ được giao. Nhiều chỉ số hoạt động thực hiện còn thấp so với mục tiêu yêu cầu của công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
Tình hình mạng lưới y tế hiện nay
Hiện nay, mạng lưới y tế tỉnh Thừa Thiên Huế được xây dựng, củng cố và phát triển theo 3 tuyến ở tỉnh; ở huyện, thị xã, thành phố và ở xã, phường, thị trấn.
Tuyến tỉnh có 3 đơn vị quản lý nhà nước, 4 đơn vị y tế dự phòng, 6 đơn vị chuyên ngành và 9 đơn vị khám chữa bệnh, phục hồi chức năng. Các đơn vị được đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực và hoạt động có hiệu quả; đáp ứng nhiệm vụ chỉ đạo chuyên môn ở tuyến dưới. Tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 46,69%, trong đó có 2 phó giáo sư, 4 tiến sĩ, 9 bác sĩ chuyên khoa II, 42 thạc sĩ, 64 bác sĩ chuyên khoa I.
Tuyến huyện, thị xã, thành phố có 9 trung tâm y tế và 9 trung tâm dân số-kế hoạch hóa gia đình. Các trung tâm y tế tổ chức theo mô hình gồm các bộ phận chỉ đạo chăm sóc ban đầu như đội y tế dự phòng, đội bảo vệ bà mẹ trẻ em-kế hoạch hóa gia đình và bệnh viện đa khoa. Có 4 bệnh viện được cải tạo, hoàn chỉnh; 2 bệnh viện được xây mới hoàn toàn. Số chỉ tiêu giường bệnh được nâng từ 870 lên 1.100 giường. Cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ 31,83%, trong đó có 1 tiến sĩ, 9 bác sĩ chuyên khoa II, 18 thạc sĩ và bác sĩ chuyên khoa I. Các bệnh viện đều được trang bị hệ chống chẩn đoán cận lâm sàng khá đầy đủ. Ngoài ra 15 phòng khám bệnh đa khoa, nhà hộ sinh khu vực được duy trì hoạt động và phát triển.
Tuyến xã, phường, thị trấn có 152 trạm y tế với bình quân từ 5 đến 6 cán bộ ở mỗi cơ sở; 97,5% thôn bản, tổ dân phố có nhân viên y tế hoạt động.
Giải pháp củng cố và hoàn thiện y tế cơ sở
Để thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, ngành y tế tỉnh Thừa Thiên Huế đã có những giải pháp can thiệp đồng bộ mang tầm chiến lược về tạo nguồn nhân lực, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị; kể cả việc nâng cao năng lực quản lý, điều hành hoạt động của hệ thống y tế nói chung và tuyến y tế cơ sở nói riêng.
Các giải pháp thực hiện tập trung vào việc xây dựng và củng cố hệ thống tổ chức y tế; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng việc tăng cường bác sĩ về công tác tại trạm y tế, tuyển dụng, đào tạo, cập nhật chuyên môn cho cán bộ y tế; nâng cấp cơ sở, trang thiết bị bằng việc nâng cấp hạ tầng vật chất, đầu tư trang thiết bị; nâng cao quản lý, tổ chức và điều hành hoạt động.
- Xây dựng và củng cố hệ thống tổ chức bằng cách sắp xếp lại các đơn vị y tế hiện có một cách phù hợp, thành lập thêm các đơn vị mới để đáp ứng yêu cầu thay đổi và sự phát triển kinh tế, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện mạng lưới khám chữa bệnh, phục hồi chức năng ở các tuyến; thành lập mới các bệnh viện đa khoa, bệnh viện chuyên khoa; phấn đấu đến năm 2014 hoàn chỉnh hệ thống khám chữa bệnh tuyến tỉnh; nâng quy mô giường bệnh của y tế địa phương từ 18,49 giường/10.000 dân lên 20 giường/10.000 dân. Đồng thời củng cố hoạt động, thành lập các Trung tâm Dân số-kế hoạch hóa gia đình, sát nhập mạng lưới hoạt động dân số ở cơ sở vào biên chế trạm y tế và điều hành tập trung.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế cơ sở với biên chế của trạm y tế được tính theo mật độ dân cư trên địa bàn, ít nhất có 5 cán bộ để bảo đảm chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong cơ cấu phải có 1 bác sĩ, 1 nữ hộ sinh trung học, 1 y sĩ y học cổ truyền hoạt động.
Có chính sách phù hợp để củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở thông qua công tác đào tạo, hỗ trợ tăng cường cán bộ tuyến trước bằng nguồn ngân sách địa phương như đề án tăng cường bác sĩ về công tác tại trạm y tế luân phiên mỗi đợt 6 tháng. Đề án này thực hiện gồm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ năm 2005-2008 với 260 bác sĩ và giai đoạn 2 từ năm 2008-2011 với 145 bác sĩ được điều động tăng cường. Đề án tăng cường bác sĩ về công tác tại trạm y tế đã bảo đảm 100% cơ sở đều có bác sĩ công tác, góp phần làm thay đổi phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng hoạt động tại tuyến y tế cơ sở. Đối với công tác tuyển dụng, đào tạo, cập nhật chuyên môn; ngành y tế đã phối hợp các đơn vị đào tạo như Trường Đại học y dược Huế, Trường Cao đẳng y tế Huế tổ chức đào tạo nguồn nhân lực bằng nhiều loại hình đào tạo chính quy, đào tạo chuyển đổi, đào tạo cử tuyển theo địa chỉ, đào tạo liên thông cho các chức danh...
Đã đào tạo liên thông bác sĩ hệ 4 năm cho 72 cán bộ, đào tạo theo địa chỉ sử dụng và cử tuyển bác sĩ hệ chính quy 6 năm cho 90 cán bộ; đào tạo 58 bác sĩ đa khoa thành bác sĩ chuyên khoa I về y học gia đình. Đồng thời cũng đã đào tạo liên thông cho 29 nữ hộ sinh sơ học thành nữ hộ sinh trung học; tuyển dụng mới 48 nữ hộ sinh trung học, 154 y sĩ y học cổ truyền cho các trạm y tế. Ngoài ra còn tổ chức tập huấn cập nhật chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực cho cán bộ, nhân viên y tế ở các tuyến.
Giải pháp nâng cao nguồn nhân lực y tế bằng việc tăng cường bác sĩ về trạm y tế, triển khai các loại hình đào tạo và tuyển dụng cán bộ đã tạo điều kiện cho mạng lưới y tế cơ sở có đủ nguồn nhân lực. 100% trạm y tế có bác sĩ, nữ hộ sinh trung học và y sĩ y học cổ truyền hoạt động.
- Nâng cấp cơ sở, trang thiết bị trạm y tế được ngành y tế quan tâm đầu tư bằng nhiều nguồn và các dự án hỗ trợ. Đầu năm 2005 chỉ có 32% (35/152) trạm y tế được tầng hóa; đến tháng 12/2009 đã có 52,6% (80/152) trạm y tế được tầng hóa. 72 trạm y tế còn lại được tầng hóa vào cuối năm 2011, bảo đảm tất cả 152 trạm y tế được tầng hóa hoàn chỉnh, mỗi cơ sở đều có đủ 13 phòng chức năng hoạt động theo quy định của Bộ Y tế.
Việc đầu tư nâng cấp trang thiết bị cũng được chú trọng. Đầu năm 2005, trang thiết bị tại trạm y tế chỉ bảo đảm phục vụ công tác khám chữa bệnh và sơ cấp cứu ban đầu, truyền thông sức khoẻ sức khỏe; chưa có các trang thiết bị phục vụ chẩn đoán, triển khai hoạt động khám chữa bệnh y học cổ truyền, phòng chống dịch bệnh... Với sự hỗ trợ của nhiều dự án, chương trình và nguồn vốn đối ứng của địa phương, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của trạm y tế ngày càng được nâng cấp và hoàn thiện; góp phần đáp ứng nhu cầu triển khai hoạt động các chương trình mục tiêu về y tế, công tác khám chữa bệnh, phòng chống dịch bệnh tại cơ sở tuyến đầu.
- Việc nâng cao quản lý, tổ chức và điều hành hoạt động được thực hiện bằng cách kiện toàn, củng cố Ban Chăm sóc sức khỏe ban đầu, xây dựng các chương trình công tác cụ thể; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động về phòng chống dịch bệnh, cơ sở đạt chuẩn quốc gia về y tế, đạt tiêu chuẩn tiên tiến về y học cổ truyền. Tăng cường việc quản lý, điều hành bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác. Đồng thời hỗ trợ thêm kinh phí hoạt động cho nhân viên y tế thôn bản, tổ dân phố.
Kết quả hoạt động của tuyến y tế cơ sở năm 2005-2011
Với các giải pháp củng cố và hoàn thiện, tuyến y tế cơ sở đã thực hiện công tác khám chữa bệnh; xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, đạt tiêu chuẩn tiên tiến về y học cổ truyền; chủ động phòng chống dịch bệnh và triển khai các chương trình mục tiêu y tế có hiệu quả.
- Các trạm y tế đã tổ chức công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đối tượng bảo hiểm y tế, trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, gia đình chính sách... Bệnh nhân đến khám điều trị ngoại trú tại trạm tăng từ 41,4% năm 2005 lên 47,6% năm 2011 so với số bệnh nhân điều trị ngoại trú toàn tỉnh. Chất lượng chẩn đoán, điều trị đã được nâng cao; các thủ thuật thực hiện tại trạm ngày càng tăng, có trên 4.400 trường hợp được thực hiện mỗi năm; các kỹ thuật xét nghiệm hiện đại được ứng dụng để phát hiện bệnh. Triển khai khám chữa bệnh ban đầu cho các đối tương bảo hiểm y tế ngày càng mở rộng để tiến đến lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2014. Người bệnh được tiếp cận với các dịch vụ y tế tốt hơn. Chính sách quốc gia về y dược học cổ truyền được tiến hành từ năm 2008 đến nay, 100% các trạm đều có y sĩ y học cổ truyền hoạt động, tỷ lệ khám chữa bệnh y học cổ truyền đạt trên 20% tổng số bệnh nhân đến khám điều trị. Công tác cung ứng thuốc tại trạm ngày càng được cải thiện, đa dạng về chủng loại, đủ các thuốc thiết yếu theo danh mục quy định.
- Xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế và tiêu chuẩn tiên tiến về y học cổ truyền được triển khai thực hiện theo hướng dẫn. Đến nay đã có 90,13% (137/152) cơ sở được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế (toàn quốc 82%) và 67,1% (102/152) cơ sở đạt tiêu chuẩn tiên tiến về y học cổ truyền (toàn quốc 15,6%).
- Công tác chủ động phòng chống dịch bệnh cũng được tuyến y tế cơ sở quan tâm chỉ đạo thực hiện song hành với công tác phòng chống thiên tai, thảm họa. Các loại dịch bệnh như tả, sốt xuất huyết, sốt rét, cúm A(H1N1), cúm A(H5N1), liên cầu lợn, Rubella, tay chân miệng... được khống chế không xảy ra.
- Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai có hiệu quả. Tiêm chủng mở rộng đạt trên 98%, thực hiện các loại vaccine mới như thương hàn, viêm não Nhật Bản, tả... Tình hình sốt rét từ năm 2005 đến nay ổn định, các chỉ tiêu chuyên môn đều đạt và vượt, số người mắc sốt rét hàng năm giảm từ 5-7%. Suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm dần từ 29,9% (2004) xuống còn 16,6% (2010). Phụ nữ có thai được tiêm chủng đủ 2 mũi uốn ván trong nhiều năm duy trì đạttrên 95%. Các tai biến sản khoa hàng năm giảm dần, số tử vong mẹ cũng giảm dần. Các chương trình y tế khác tiếp tục được duy trì kết quả bền vững như phủ muối iode toàn dân, thanh toán phong được công nhận trên phạm vi toàn tỉnh.
Định hướng hoạt động trong thời gian đến
Ngành y tế quán triệt quan điểm bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của đảng và nhà nước. Đầu tư cho cho lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Xã hội hoá các hoạt động chăm sóc sức khoẻ gắn với tăng cường đầu tư của nhà nước, thực hiện tốt việc trợ giúp các đối tượng chính sách và người nghèo. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội.
- Tiếp tục tập trung lãnh đạo việc triển khai đề án củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; đảm bảo 100% trạm y tế có bác sĩ công tác; các trung tâm y tế tiếp tục tăng cường luân phiên bác sĩ về công tác tại các trạm y tế chưa có bác sĩ, phấn đấu đến năm 2014 tất cả các trạm y tế điều có biên chế bác sĩ công tác.
- Xây dựng cơ chế phối hợp cụ thể giữa ngành y tế địa phương với Bệnh viện Trung ương Huế, Trường Đại học Y Dược Huế và y tế các ngành khác để phát huy tiềm năng sẵn có trên địa bàn nhằm thực hiện công tác đào tạo cán bộ, hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật.
- Chỉ đạo và triển khai tiếp tục đề án nâng cao chất lượng khám chữa bệnh có hiệu quả, đặc biệt cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi. Đồng thời từng bước nâng cao tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế, tiến tới thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
- Triển khai các chương trình mục tiêu y tế quốc gia và các chương trình y tế ưu tiên của địa phương có hiệu quả cao. Tiếp tục tập trung chỉ đạo công tác phòng chống các loại bệnh dịch, chủ động khống chế các dịch bệnh xảy ra.
- Tăng cường xã hội hóa y tế nhằm huy động sự tham gia của các cấp, các ngành và đoàn thể xã hội trong công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân; đồng thời chủ động tìm kiếm các nguồn viện trợ để tăng nguồn lực cho ngành.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về y tế. Đẩy mạnh công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, tăng cường công tác kiểm tra và thanh tra trong các lĩnh vực vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, quản lý dược và hành nghề y dược tư nhân.
- Đổi mới cơ chế quản lý, điều hành, tài chính và nhân lực tại các cơ sở y tế để phát huy tính năng động, sáng tạo của các đơn vị trong việc huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý ngành và trong quản lý bệnh viện. Từng bước thực hiện tự chủ về tài chính của các cơ sở khám chữa bệnh công lập.