Theo số liệu thống kê của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn năm 2011, số ca bệnh nhiễm mới sán lá gan lớn cũng như một số bệnh giun sán ký sinh đường ruột ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên ngày càng tăng cao; đây là những con số đáng lưu ý vì trong những năm gần đây các bệnh ký sinh đường ruột truyền từ động vật sang người và truyền qua thực phẩm ngày càng có điều kiện thuận lợi để phát triển và lan rộng.
Tình hình nhiễm bệnh giun sán ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2011
Số ca nhiễm bệnh phát hiện tại Phòng khám chuyên khoa
Những năm gần đây cùng với bệnh sán lá gan lớn từ động vật ăn cỏ (trâu, bò, cừu), một số bệnh giun khác ký sinh từ động vật cũng đã lan truyền sang người ở mức độ phổ biến như ấu trùng giun đũa chó/mèo, ấu trùng giun lươn, giun đầu gai, sán dây lợn… ; do bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng ở thể ấu trùng nên triệu chứng không điển hình và rất khó chẩn đoán, nên các cơ sở y tế thường bỏ sót những bệnh này hoặc chẩn đoán nhầm sang bệnh khác làm ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe cũng như sức sản xuất của người dân.
Chỉ tính riêng năm 2011, trong gần 100.000 lượt bệnh nhân đến khám, Phòng khám chuyên khoa của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã phát hiện 20.080 bệnh nhân nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo, 11.523 ấu trùng giun lươn, 3.704 ấu trùng giun đầu gai, 10.121 ấu trùng sán dây lợn và 5.593 trường hợp amibe đường ruột. Trong khi đó với tổng số 44.010 bệnh nhân đến khám tại Phòng khám của Viện cả năm 2010 mới chỉ phát hiện 4.908 bệnh nhân nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo, 2640 bệnh nhân nhiễm giun lươn, 1941 bệnh nhân nhiễm giun đầu gai, 1612 bệnh nhân nhiễm ấu trùng sán dây lợn, 882 bệnh nhân nhiễm amíp đường ruột.
Những dẫn liệu nêu trên cho thấy số ca bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người ngày càng gia tăng và nhu cầu được khám chữa bệnh chuyên khoa của người dân là rất cấp thiết, hơn nữa phần lớn các bệnh nhân này đều có những triệu chứng cấp tính và điều trị tại nhiều cơ sở y tế ở các tỉnh trong khu vực cũng như trong nước không đỡ chuyển về Viện để khám và điều trị, đó là chưa kể số bệnh nhân không có điều kiện đi khám phát hiện bệnh ở các địa phương là rất lớn.
Số ca bệnh giun sán phát hiện tại Phòng khám Viện năm 2011
Tháng | Số ca nhiễm ấu trùng giun sán | Amíp |
Giun lươn | Giun đầu gai | Giun đũa chó | Sán dây lợn |
XN | + | XN | + | XN | + | XN | + | XN | + |
1 | 1892 | 210 | 1742 | 61 | 2146 | 644 | 1709 | 183 | 449 | 65 |
2 | 2794 | 497 | 2626 | 68 | 3121 | 795 | 4642 | 397 | 839 | 216 |
3 | 4051 | 629 | 3719 | 70 | 8140 | 1003 | 3630 | 466 | 1208 | 247 |
4 | 3594 | 622 | 7355 | 56 | 7207 | 932 | 2707 | 567 | 1138 | 241 |
5 | 4788 | 1091 | 4490 | 410 | 4976 | 1625 | 4397 | 904 | 1895 | 369 |
6 | 7699 | 1616 | 7239 | 797 | 7920 | 2821 | 7103 | 1319 | 3695 | 714 |
7 | 9019 | 1306 | 3452 | 293 | 9262 | 2087 | 8112 | 1135 | 5170 | 683 |
8 | 9491 | 1235 | 4614 | 1135 | 9772 | 2188 | 8217 | 979 | 4617 | 621 |
9 | 6110 | 1062 | 4154 | 98 | 6374 | 1638 | 5271 | 913 | 2701 | 484 |
10 | 7107 | 1354 | 6040 | 111 | 7524 | 2602 | 6387 | 1130 | 2807 | 660 |
11 | 7100 | 1141 | 6550 | 338 | 7378 | 2054 | 6343 | 1322 | 3507 | 723 |
12 | 4764 | 760 | 2395 | 267 | 4961 | 1691 | 4219 | 806 | 2755 | 570 |
Tổng cộng | 68409 | 11523 | 54376 | 3704 | 78781 | 20080 | 62737 | 10121 | 30781 | 5593 |
Bên cạnh số nhiễm mới, số ca bệnh tái khám cũng rất cao, trong đó có trên 50% nhiễm lại chứng tỏ người bệnh chưa có ý thức tự bảo vệ phòng tránh nguồn nhiễm ký sinh đường ruột, nhất là vệ sinh ăn uống và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tỷ lệ nhiễm bệnh qua điều tra phát hiện tại cộng đồng
Trước tình hình bệnh giun sán tăng cao tại cơ sở điều trị, việc xác định các vùng nhiễm bệnh tại cộng đồng để nghiên cứu dịch tễ học và đề xuất biện pháp phòng chống toàn diện là hết sức quan trọng. Trong năm 2011, Viện đã phối hợp với các tỉnh trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên tố chức điều tra đánh giá tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ tại 2 xã Krông Na và EaHoa thuộc huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk; kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ tại xã EaHoa là 16,7% (68/405) và xã Krông Na là 20% (80/400). Điều tra vật chủ trung gian truyền bệnh sán máng tại 2 xã Krông Na và EaHoa, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk; tiến hành thu thập được hơn 1000 ốc vật chủ trung gian truyền bệnh tại các khu vực sông suối của xã. Điều tra giun chỉ bạch huyết bằng test ICT cho 2.000 học sinh mẫu giáo và tiểu học của 2 huyện Diên Khánh và Ninh Hoà (Khánh Hoà), kết quả xét nghiệm hoàn toàn âm tính.
|
TS. Nguyễn Văn Chương phỏng vấn người dân tại địa phương về kiến thức phòng chống giun sán |
Điều tra tỷ lệ, cường độ nhiễm giun sán tại 4 điểm thuộc 2 huyện của tỉnh Quảng Bình và Gia Lai:Tại Nông trường Lệ Ninh (huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình) xét nghiệm 405 mẫu phân, phát hiện 35 mẫu nhiễm giun (8,64%); trong đó nhiễm giun đũa 9/35 (2,22%), giun tóc 1/35 (0,24%), giun móc 25/35 (6,17%).Tại Xã Vạn Ninh (huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) xét nghiệm 407 mẫu phân, phát hiện 33 mẫu nhiễm nhiễm giun (8,1%); trong đó nhiễm giun đũa 8/33(1,97%); giun tóc: 1(0,24%); giun móc 24/33 (5,90%). Tại Xã Song An (thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai) xét nghiệm 407 mẫu phân, phát hiện 54 mẫu nhiễm giun (13,26%); trong đó nhiễm giun đũa 8/54 (1,96%), giun tóc 5/54 (1,22%) và giun móc 41/54 (10,07%).Tại Phường Tây Sơn (thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai) xét nghiệm 400 mẫu phân, phát hiện 40 mẫu nhiễm giun (10,0%); trong đó nhiễm giun đũa 6/40 (1,5%), giun tóc 5/40 (1,25%) và giun móc 29/40 (7,25%).Tất cả số ca nhiễm giun phát hiện tại 4 điểm điều tra trên đã được tiến hành phát thuốc tẩy giun và tuyên truyển kiến thức phòng chống giun sán.
Điều tra đơn bào đường ruột tại 2 xã Diên Lộc (huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) xét nghiệm 811 mẫu phân, phát hiện 134 mẫu nhiễm bào nang amip (16,52%); trong đó nhiễm Entamoeba histolytica 103/811 (12,70%), Giardia lambia 31/811 (3,82%).Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đầu gai trên một số vật chủ (lươn, ếch…) tại thực địa thuộc tỉnh Bình Định và labo; đã thu thập mẫu lươn, ếch, cá vào 2 mùa tại một số chợ của huyện Phù Mỹ, huyện Tuy Phước và TP Quy Nhơn.Tổ chức 2 đoàn công tác điều tra giun chỉ bạch huyết cho học sinh tiểu học tại thị xã Ninh Hòa và huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa theo chương trình của Tổ chức Y tế Thế giới).
Nghiên cứu một số triệu chứng lâm sàng và hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai bằng thuốc Albendazole 400mg tại 2 điểm của tỉnh Bình Định. Kết quả ban đầu đã xét nghiệm 812 mẫu máu bằng kỹ thuật miễn dịch ELISA phát hiện kháng thể kháng giun đầu gai ở người và đang theo dõi hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai bằng thuốc Albendazole với liều 15mg/kg/24h × 21 ngày. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo tại một số điểm của tỉnh Bình Định và Gia Lai. Kết quả điều tra đợt 1 với 820 mẫu huyết thanh cho tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó 15,49%, đang tiếp tục nghiên cứu sự tồn tại của trứng giun đũa chó/mèo ở ngoại cảnh.
Nỗi lo phòng chống bệnh ký sinh trùng từ động vật sang người
Để hạn chế sự phát triển bệnh giun sán, nhất là các bệnh truyền từ động vật sang người ngoài các hoạt động phát hiện điều trị bệnh, điều tra, nghiên cứu; trong nhiều năm qua Viện Sốt rét-ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã tích cực hỗ trợ 15 tỉnh thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên vật tư, kỹ thuật xét nghiệm giun sán như trang bị một số vật tư, hóa chất phục vụ cho công tác phòng chống giun sán; hướng dẫn các cán bộ y tế địa phương thực hiện một số kỹ thuật xét nghiệm và cách pha hóa chất phục vụ công tác nghiên cứu.Với sự tài trợ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) trong năm 2011 Viện đã tổ chức thành công lớp tập huấn kỹ thuật xét nghiệm và chẩn đoán các bệnh giun sán cho 10 tỉnh; chỉ đạo 13/15 tỉnh miền Trung - Tây Nguyên (trừ TP. Đà Nẵng và Quảng Ngãi) tẩy giun cho 1.077.414 học sinh các trường tiểu học đạt 96,25%.
Tuy nhiên những nỗ lực phòng chống nêu trên vẫn chưa đủ để ngăn chặn khả năng lan tràn các bệnh ký sinh trùng từ động vật sang người, khó khăn lớn nhất trong phòng chống bệnh giun sán là không có chương trình phòng chống bệnh quy mô và nguồn kinh phí can thiệp hạn hẹp, chủ yếu là trích từ nguồn ngân sách thường xuyên cùng với sự đầu tư nhỏ lẻ của một số tổ chức quốc tế. Biện pháp can thiệp phòng chống bệnh hiện nay vẫn chỉmang tính thụ động ở một số cơ sở y tế chuyên khoa thông qua khám lâm sàng, xét nghiệm và điều trị thuốc đặc hiệu; chưa có giải pháp can thiệp đồng bộ ở cộng đồng để hạn chế nguồn lây nhiễm bệnh, chưa có câu trả lời thỏa đáng về dịch tễ học, đường lây và nguyên nhân nhiễm bệnh từ động vật sang người. Vấn đề nghiên cứu sự phát triển bệnh ở giai đoạn ấu trùng để từ đó rút ra các dấu hiệu đặc trưng về lâm sàng, xét nghiệm giúp cho chẩn đoán xác định và điều trị đặc hiệu chưa có câu trả lời thỏa đáng.
 |
Thói quen ăn uống của người dân là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh giun sán ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên tăng cao |
Một số giải pháp cần làm để hạn chế bệnh ký sinh trùng từ động vật sang người
Giải pháp trước mắt cần thống kê và phân loại bệnh nhân đã được phát hiện bệnh từ động vật truyền sang người trong vài năm gần đây kể cả phương diện lâm sàng cũng như dịch tễ học để ưu tiên can thiệp phòng chống từ cơ sở; nghiên cứu xác định nguồn nhiễm bệnh, trung gian truyền bệnh, đường lây và các yếu tố liên quan đến sự phát triển bệnh để có cơ sở đề xuất với Bộ Y tế biện pháp phòng chống có hiệu quả. Tổ chức tập huấn, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên khoa tại các địa phương có lưu hành bệnh để chủ động phát hiện, điều trị và can thiệp sớm tại cộng đồng.
Cần ưu tiên kinh phí can thiệp và cần có chương trình nghiên cứu trọng điểm cấp nhà nước về dịch tễ học và can thiệp các bệnh này (đề tài chỉ định) để có cơ sở khoa học đề xuất quy mô phòng chống. Trong năm 2011, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) sẽ phối hợp với Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn tổ chức Hội thảo chuyên đề về các bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên với sự góp mặt của các chuyên gia hàng đầu về ký sinh trùng trong nước và quốc tế, các nhà quản lý của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn, Bộ Khoa học công nghệ, Viện Thú y, Viện Khoa học Việt Nam, các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng và một số tỉnh có lưu hành bệnh; đây là điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học đa ngành liên quan đến bệnh ký sinh trùng từ động vật truyền sang người thảo luận và thống nhất mô hình phòng chống không chỉ ở người mà ở cả động vật mang mầm bệnh.