Trong 11 tháng đầu năm 2016, khu vực miền Trung-Tây Nguyên tiếp tục giữ vững mức giảm sau 5 năm (2011-2015) mang lại nhiều tiến bộ đạt được hướng đến mục tiêu loại trừ sốt rét vào năm 2030 nhưng đây luôn là “điểm nóng” sốt rét của cả nước khi phần lớn số ca mắc và chết sốt rét đều tập trung ở khu vực này.
Các chỉ số sốt rét giảm mạnh
Trong 11 tháng/2016
Theo số liệu thống kê 11 tháng/2016 của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn (IMPE Quy Nhơn) so với cùng kỳ 2015 (Bảng 1), toàn khu vực miền Trung-Tây Nguyên có 2.777 bệnh nhân sốt rét (BNSR) giảm 60,87% (2.777/7.097 ca); trong đó Tây Nguyên giảm 67,92% (1.231/3.837 ca), miền Trung giảm 52,58% (1.546/3.260 ca). Toàn khu vực có 2.277 ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) giảm 64,41% (0,21/0,59), trong đó Tây Nguyên giảm 71,83% (0,20/0,71), miền Trung giảm 55,10% (0,22/0,49). Chỉ có 12 ca sốt rét ác tính (SRAT) giảm 14,29% (12/14 ca) và 2 tử vong sốt rét (TVSR) tăng 1 ca so với cùng kỳ năm 2015 (2/1).
Bảng 1. Chỉ số sốt rét miền Trung-Tây Nguyên 11 tháng/2016 so với cùng kỳ năm trước (sắp xếp theo mức độ nguy cơ sốt rét)
Tên tỉnh | Tỷ lệ % (+/-) BNSR | Tỷ lệ % (+/-) KSTSR | Số ca SRAT (2016/2015) | Số ca TVSR (2016/2015) |
Tăng (+) | Giảm (-) | Tăng (+) | Giảm (-) |
Tây Nguyên | | - 67,92% | | - 71,83% | 0/2 | 0/1 |
Gia Lai | | - 75,07% | | - 71,71% | 0 | 0 |
Đắc Lắk | | - 71,52% | | - 72,41% | 0/2 | 0/1 |
Đắc Nông | | - 49,58% | | - 61,02% | 0 | 0 |
Kon Tum | | - 42,21% | | - 61,54% | 0 | 0 |
Miền Trung | | - 52,58% | | - 55,10% | 12/12 | 2/0 |
Quảng Bình | | - 45,28% | | - 44,62% | 0 | 0 |
Quảng Trị | | - 56,06% | | - 31,25% | 1/0 | 0 |
Quảng Nam | | - 6,88% | | - 15,79% | 0 | 0 |
Phú Yên | | - 80,55% | | - 80,52% | 2/2 | 2/0 |
Khánh Hòa | | - 43,26% | | - 36,25% | 3/6 | 0 |
Ninh Thuận | | - 48,54% | | - 60,2% | 4/1 | 0 |
Bình Thuận | | - 69,04% | | - 65,71% | 0 | 0 |
Bình Định | | - 46,61% | | - 64,71% | 0/1 | 0 |
Quảng Ngãi | | - 78,13% | | - 83,33% | 0/1 | 0 |
TT-Huế | | - 10% | + 7,14% | | 2/1 | 0 |
TP. Đà Nẵng | | - 25% | | - 28,57% | 0 | 0 |
Toàn khu vực | | - 60,87% | | - 64,41% | 12/14 | 2/1 |
Qua bảng số liệu thống kê chỉ số sốt rét 11 tháng/2016 so với cùng kỳ 2015 thấyhầu hết các tỉnh trọng điểm sốt rét trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên đều các chỉ số sốt rét giảm sâu và không có ca tử vong sốt rét, ngoại trừ Thừa Thiên-Huế có KSTSR tăng 7,14% nhưng số lượng thấp (34 ca) và Phú Yên có 2 TVSR nhưng chỉ số BNSR và KSTSR đều giảm sâu > 80%. Về cơ cấu chủng loại KSTSR 11 tháng/2016 trong tổng số 2.277 ca xét nghiệm dương tính, chủng P.falciparum chiếm 48,66% (1.108 ca); P.vivax 50,33% (1.146 ca); phối hợp (P.falciparum + P.vivax) 0,92% (21 ca) và P.malariae 0,09% (2 ca). Như vậy, các chỉ số sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên trong năm 2016 tiếp tục được duy trì tương đối bền vững so với chỉ số giảm trong vòng 5 năm gần đây (2011-2015).

Việt Nam là 1 trong 5 nước thuộc GMS được WHO ghi nhận có P.falciparum kháng Artemíinine và có khả năng kháng cả với các phối hợp thuốc này (ACTs)
Trong 5 năm (2011-2015)
Theo IMPE Quy Nhơn, trong 5 năm qua (2011-2015) các chỉ số sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2015 so với 2011: bệnh nhân sốt rét (BNSR) giảm 53,78% (7.644/16.539); trong dó Tây Nguyên giảm 49,39% (4.137/8.174), miền Trung giảm 58,08% (3.507/8.365).Ký sinh trùng sốt rét(KSTSR) giảm 42,71% (6.501/11.348); trong đó Tây Nguyên giảm 36,84% (3.552/7.577), miền Trung giảm 48,50% (2.948/5.724). Sốt rét ác tính (SRAT) giảm 84,38% (15/96); tử vong sốt rét (TVSR) giảm 5 ca (1/6), không có dịch sốt rét xảy ra.Đặc biệtcác chỉ số giảm mắc sốt rét, BNSR và KSTSR tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2015 giảm rất sâu so với 2011(Bảng 2).
Bảng 2. So sánh các chỉ số mắc sốt rét năm 2015 so với 2011 tại miền Trung-Tây Nguyên(sắp xếp theo mức độ nguy cơ sốt rét)
Tên tỉnh | Tỷ lệ % (+/-) BNSR | Tỷ lệ % (+/-) KSTSR | Số ca SRAT (2015/2011) | Số ca TVSR (2015/2011) |
Tăng (+) | Giảm (-) | Tăng (+) | Giảm (-) |
Tây Nguyên | | - 49,39% | | - 36,84% | | 1/5 |
Gia Lai | | -38,34% | | -24,14% | | 0/2 |
Đắc Lắk | | -55,42% | | -45,68% | | 1/2 |
Đắc Nông | | -55,19% | | -35,43% | | 0 |
Kon Tum | | -64,49% | | -73,79% | | 0/1 |
Miền Trung | | - 58,08% | | - 48,50% | | 0/1 |
Quảng Bình | | -40,59% | +37,69% | | | 0 |
Quảng Trị | | -86,71% | | -89,25% | | 0 |
Quảng Nam | | -82,74% | | -70,77% | | 0 |
Phú Yên | | -16,51% | | -8,76% | | 0 |
Khánh Hòa | | -52,94% | | -29,94% | | 0 |
Ninh Thuận | | -49,96% | | -42,42% | | 0 |
Bình Thuận | | -51,94% | | -51,76% | | 0 |
Bình Định | | -77,80% | | -78,16% | | 0 |
Quảng Ngãi | | -66,67% | | -65,22% | | 0 |
TT-Huế | | -59,26% | | -65,45% | | 0 |
TP. Đà Nẵng | | -81,82% | | -81,58% | | 0/1 |
Toàn khu vực | | - 53,78% | | 42,71% | 15/96 | 1/6 |
Kết quả bảng 2 cho thấy ngoại trừ Quảng Bình có chỉ số KSTSR tăng, còn tất cả các tỉnh trong khu vực đều giảm sâu cả về BNSR và KSTSR.Trong 5 năm (2011-2015), cơ cấu KSTSR ở khu vực có xu hướng giảm qua các năm đến năm 2015 tỷ lệP.falciparum(44,32%) vàP.vivax(53,85%) đảo ngược so với năm 2011P.falciparum(65,32%) vàP.vivax(29,47%) chứng tỏ các biện pháp can thiệp áp dụng trong chương trình sốt rét có hiệu quả và phù hợp với chỉ số sốt rét giảm qua các năm khiP.falciparumlà chủng gây sốt rét ác tính và tử vong, đồng thời đa kháng thuốc sốt rét kể cả với thuốc Artemisinine đang có xu hướng giảm thấp.

Các chuyên gia sốt rét lặn lội xuống vùng sâu, vùng xa tiếp cận cộng đồng
Nỗ lực phòng chống và loại trừ sốt rét
Có được kết quả này là nhờ sự quan tâm đầu tư tích cực cả về phương diện quốc gia cũng như quốc tế cùng sự nỗ lực phòng chống và loại trừ sốt rét của các tuyến y tế và mạng lưới chuyên khoa từ trung ương tới địa phương trong tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét thường quy đảm bảo độ bao phủ màn tẩm hóa chất (ITNs), phun tồn lưu hóa chất diệt muỗi trong nhà (IRS), giám sát biến động vector truyền bệnh do biến đổi khí hậu và sự phục hồi vector trong quá trình phòng chống sốt rét; nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét tại các tuyến bệnh viện tỉnh, huyện, phòng khám đa khoa khu vực và trạm y tế xã; tự điều trị (stan-by treatment) và điều trị có kiểm soát (DOT) sốt rét do P.vivax tại cộng đồng; tăng cường giám sát hệu lực thuốc chống sốt rét tại các vùng có P.falciparum kháng Artemisinine và các khu vực biên giới giáp Lào, Cambodia; thực hiện có hiệu quả Sáng kiến ngăn chặn kháng Artemisinine (RAI) trong hợp tác kháng thuốc GMS; Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh sốt rét do Bộ Y tế ban hành năm 2016. Tổ chức Hội thảo phối hợp liên ngành trong phòng chống sốt rét tại Tây Nguyênnhằm thúc đẩy sự vào cuộc của các cấp, các ngành cũng như phối hợp liên quốc gia có chung đường biên giới nhằm ngăn chặn và đẩy lùi sốt rét. Tổ chức Hội thảo phòng chống sốt rét 8 tỉnh biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia tại cụm Tây Nguyên gồm 4 tỉnh (Đăk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, KomTum) với các tỉnhAttapu (Lào), Mondulkiri và Ratarakiri (Campuchia) tại Tp. Pleiku (Gia Lai). Cụm miền Trung gồm 4 tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế) với các tỉnh Khammoun, Savanakhet (Lào) tại Lao Bảo, huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) nhằm chia sẻ thông tin sốt rét và phòng chống sốt rét khu vực biên giới, phối hợp giám sát và quản lý sốt rét, nhất là sốt rét kháng thuốc; quản lý dân di biến động, giao lưu biên giới và thực hiện các biện pháp phòng chống hiệu quả như sử dụng màn tẩm màn hóa chất tồn lưu lâu (LLINs); phát hiện sớm, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời bệnh nhân sốt rét; truyền thông giáo dục, nâng cao ý thức tự bảo vệ của cộng đồng khi sống trong vùng hoặc vào vùng sốt rét. Tổ chức Hội thảo lộ trình loại trừ sốt rét 2016-2030 tại khu vực miền Trung-Tây nguyên và tham dự Hội thảo thống nhất lộ trình loại trừ sốt rét quốc gia tại Hà Nội phân định các nhóm tỉnh phấn đấu loại trừ sốt rét theo từng chặng đến 2020, 2025 và 2030.
Theo đó, với những kết quả đạt được trong 11 tháng năm 2016 cũng như 5 năm qua (2011-2016), các tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên hoàn toàn tự tin có thể phấn đấu thực hiện đúng lộ trình loại trừ sốt rét theo mục tiêu đề ra.

Xét nghiệm máu tìm KSTSR và cấp thuốc điều trị kịp thời cho bệnh nhân sốt rét
Vẫn là “điểm nóng” sốt rét
Theo báo cáo đánh giá kết quả phòng chống và loại trừ sốt rét năm 2015, mặc dù các chỉ số sốt rét giảm mạnh ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên nhưng số lượng ca bệnh vẫn luôn chiếm tỷ lệ cao so với các khu vực khác trong nước, đặc biệt là tác nhân gây bệnh ký sinh trùng sốt rét (Bảng 3).
Bảng 3. So sánh chỉ số ký sinh trùng sốt rét giữa các khu vực trong cả nước năm 2015
Khu vực | So sánh KSTSR theo khu vực | Tỷ lệ tăng, giảm (2015/2014) |
Năm 2015 | Năm 2014 |
Miền Trung-Tây Nguyên | 6.743 (72,27%) | 13.269 (84,24%) | - 48,21% |
Miền Nam | 2.096 (22,46%) | 2.012 (12,77%) | + 4,18% |
Miền Bắc | 492 (5,27%) | 471 (2,99) | + 4,46% |
Cộng cả nước | 9.331 | 15.752 | - 40,76% |
So sánh chỉ số ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) giữa các khu vực trong cả nước năm 2015 với 2014 (Bảng 3) thấy miền Trung-Tây nguyên giảm (- 48,21%), trong khi Nam bộ-Lâm Đồng tăng (+ 4,18%) và miền Bắc tăng (+ 4,46%) nhưng số lượng ca KSTSR vẫn luôn chiếm tỷ lệ cao ở miền Trung-Tây Nguyên 72,27% năm 2015 (6.743 ca) và 84,24% năm 2014 (13.269 ca) so với các khu vực khác trong nước. Trong đó, 9 tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên nằm trong danh sách 10 tỉnh có tỷ lệ KSTSR/dân số chung cao nhất nước trong năm 2015 (Bảng 4).
Bảng 4. Danh sách 10 tỉnh có tỷ lệ KSTSR/dân số chung cao nhất nước năm 2015(Theo NIMPE năm 2016)
Số TT | Tỉnh | Dân số chung | Dân số SRLH | Số KSTSR | Tỷ lệ KSTSR/ Dân số chung |
1 | Bình Phước | 948.352 | 820.497 | 1.799 | 1,90 |
2 | Gia lai | 1.406.542 | 971.274 | 2.215 | 1,57 |
3 | Ninh Thuận | 632.962 | 234.170 | 551 | 0,87 |
4 | Đắc Nông | 563.936 | 551.787 | 379 | 0,67 |
5 | Khánh Hòa | 1.238.640 | 190.980 | 756 | 0,61 |
6 | Phú Yên | 922.364 | 315.558 | 479 | 0,52 |
7 | Đắc Lắc | 1.881.823 | 1.484,415 | 779 | 0,41 |
8 | Quảng Bình | 916.927 | 417.437 | 369 | 0,40 |
9 | Kon Tum | 485.000 | 426.408 | 179 | 0,37 |
10 | Bình Thuận | 1.236.383 | 679.514 | 343 | 0,28 |
Theo danh sách xếp loại dựa vào tỷ lệ KSTSR/dân số chung của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương (NIMPE) trong 10 tỉnh cao nhất nước có 9 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên, trừ tỉnh Bình Phước thuộc khu vực Nam bộ và Lâm Đồng (Bảng 2). Tuy nhiên, nếu xếp theo số lượng ca KSTSR thì nguy cơ sốt rét cao nhất là Gia Lai (2.215), Bình Phước (1.799), Đắc Lắc (779), Khánh Hòa (756), Ninh Thuận (551), Phú Yên (479), Đắc Nông (379), Quảng Bình (369), Bình Thuận (343) và Kon Tum (179).

Các nhóm dân di biến động khó kiểm soát ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên bao gồm dân đi rừng, làm rẫy, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới…
Như vậy qua thực trạng sốt rét khu vực (Bảng 3) và các tỉnh (Bảng 4) trong năm 2015, miền Trung-Tây Nguyên vẫn luôn là "điểm nóng" (hot spot) sốt rét của cả nước nên có thể nói nếu giải quyết được tỉnh hình sốt rét ở khu vực này và tỉnh Bình Phước thì coi như đạt được mục tiêu loại trừ sốt rét ở Việt Nam.

Đặc thù sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên
Khó khăn và thách thức trên đường tiến tới loại trừ sốt rét
Theo Báo cáo sốt rét toàn cầu (World Malaria Report)năm 2016 của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phát hành ngày 13/12/2016, bức tranh toàn cảnh về sốt rét thế giới không đồng đều khi có nhiều quốc gia giảm sốt rét bền vững tiến tới đích loại trừ thì vẫn còn nhiều quốc gia sốt rét giảm không bền vững, thậm chí gia tăng cục bộ ảnh hưởng đến mục tiêu loại trừ sốt rét toàn cầu vào năm 2030. Theo báo cáo của các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng, mặc dù 5 năm qua (2011-2015) các chỉ số sốt rét ở Việt Nam giảm vượt chỉ tiêu đề ra nhưng nguy cơ sốt rét vẫn tập trung cao ở Tây Nguyên, miền Trung và miền Đông Nam bộ (Bình Phước). Mặc dù các chỉ sốt rét giảm sâu nhưng chưa thật sự bền vững, nhất là ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên có đặc điểm tự nhiên và khí hậu thuận lợi cho bệnh sốt rét lưu hành và phát triển quanh năm; đặc biệt là trong năm 2016 hầu hết các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên phải gánh chịu liên tiếp những hậu quả thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu từ nắng hạn kéo dài (El Nino) hồi đầu năm đến những trận lũ lụt liên tiếp (La Nina) vào cuối năm, không chỉ thiệt hại về người và của mà còn tạo môi trường thuận lợi dễ phát sinh dịch bệnh. Theo đó vùng trọng điểm sốt cũng là vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, dân trí thấp và chưa có ý thức tự bảo vệ phòng chống sốt rét, khi có sốt chưa chủ động đến cơ sở y tế để được khám và điều trị dẫn đến biến chứng nặng và tử vong. Cùng với đó, tình trạng di biến động dân số khó kiểm soát lớn (dân đi rừng, làm rẫy/ngủ rẫy, dân giao lưu biên giới, dân di cư tự do,làm thuê theo mùa vụ ở những vùng sốt rét lưu hành…), số liệu thống kê sốt rét hàng năm cho thấy hầu hết số ca mắc sốt rét và chết sốt rét trong cả nước hàng năm đều tập trung chủ yếu ở những đối tượng này.

Nghiên cứu ngăn chặn ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc Artemíinine không chỉ ở Việt Nam, Tiểu vùng sông Me Kông (GMS) mà còn trên phạm vi toàn cầu
Các vấn đề khó khăn kỹ thuật cũng là những thách thức không nhỏ trong quá trình phòng chống sốt rét, đặc biệt là chủng ký sinh trùng P.falciparum đã phát triển kháng với thuốc sốt rét có hiệu lực cao artemisinin ở GMS trong đó có Việt Nam và đa kháng thuốc (multi-drug resistance) khó khăn cho điều trị sốt rét và sốt ác tính; khó khăn hơn là chủng này ngày càng có nguy cơ lan rộng do quá trình di biến động ngoài tầm kiểm soát y tế. Trong khi, P.falciparum là chủng KSTSR gây sốt rét ác tính dẫn đến tử vong và kháng cao trên diện rộng với nhiều loại thuốc chống sốt rét, kể cả với các thuốc có hiệu lực cao như Artemisinine và phối hợp có artemisinine (ACTs) ở Việt Nam cũng như Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS); việc đảo ngược cơ cấu KSTSR P.vivax là chủng hiếm gây sốt rét ác tính và còn nhậy với thuốc đặc trị chloroquine đang trở nên trội hơn là tín hiệu tốt trong chương trình phòng chống và loại trừ sốt rét ở Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra thách thức trong điều trị tiệt căn diệt thể ẩn/thể ngủ (Hypnozoites) tiềm ẩn trong tế bào gan của chủng này gây ra những đợt sốt rét tái phát xa khi phải sử dụng primaquine quá dài ngày (2 tuần lễ), ảnh hưởng chỉ tiêu giường bệnh và khó kiểm soát hiệu quả dùng thuốc ở cộng đồng bao gồm cả tác dụng gây tán huyết của primaquine ở những người thiếu men G6PD (Glucose 6-phosphate dehydrogenase) trong hồng cầu.

Cấp phát màn tẩm hóa chất (ITNs) cho cộng đồng
Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng các biện pháp phòng chống véc tơ như màn tẩm (ITNs), phun tồn lưu hóa chất diệt côn trùng trong nhà (IRS).. làm cho muỗi Anopheles thay đổi tập tính trú đậu, tìm mồi hút máu và kháng hóa chất diệt côn trùng. Thậm chí thách thức này ở cả cán bộ y tế minh chứng qua các trường hợp tử vong gần đây, dù sao đó cũng là bài học và tiếng chuông cảnh tỉnh cho sự chủ quan, sao nhãng và lơ là với sốt rét. Một thách thức lớn thường xảy ra trong quá trình phòng chống bệnh dịch là nảy sinh tư tưởng chủ quan khi dịch bệnh đang bị đẩy lùi, điều này không chỉ xảy ra ở cộng đồng mà còn ở các nhà quản lý khi có lúc chương trình sốt rét bị đe dọa xóa số, nguồn lực bị cắt giảm hoặc cung cấp nhỏ giọt không đảm bảo nhu cầu thực hiện, thiếu sự quan tâm chỉ đạo ở các vùng sốt rét giảm thấp. WHO đã cảnh báo lộ trình loại trừ sốt rét khó đạt mục tiêu đề ra nếu nguồn kinh phí bị cắt giảm do vậy cùng với sự nỗ lực thực hiện của các tuyến y tế cần có sự tiếp tục quan tâm đầu tư của Chính phủ cũng như các tổ chức quốc tế để đảm bảo đến đích cuối cùng loại trừ sốt rét vào năm 2030.