Ngày 12/1/2006, phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác y tế năm 2005 và triển khai kế hoạch năm 2006, PGS.TS.Trần Thị Trung Chiến-Bộ trưởng Bộ Y tế đã nhấn mạnh một số kết quả đạt được trong 5 năm (2001-2005), bao gồm:
1. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển: 100% xã, phường có cán bộ y tế, trong đó trên 80% số trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi; 65% số trạm y tế có bác sĩ, trên 90% số thôn bản có nhân viên y tế hoạt động; các trạm y tế đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh thông thường cho nhân dân.
2. Công tác phòng chống dịch bệnh đã được triển khai mạnh mẽ, chủ động và hiệu quả: nhiều bệnh dịch nguy hiểm đã được khống chế và đẩy lùi như dịch tả, dịch hạch, sốt rét…, đặc biệt là việc khống chế và đẩy lùi dịch SARS năm 2003 và dịch cúm A (H5N1) năm 2004-2005 đã góp phần quan trọng vào việc ổn định xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao vị trí của ngành y tế Việt Nam trên trường quốc tế.
3. Chương trình mục tiêu y tế quốc gia đã được thực hiện có hiệu quả cao: thường xuyên có trên 95% số trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ 6 loại vac xin cơ bản; tỷ lệ mắc bệnh và chết do 6 bệnh có vac xin phòng ngừa ở trẻ em đã giảm rõ rệt. Đã thanh toán bệnh bại liệt trẻ em và loại trừ uốn ván sơ sinh theo tiêu chuẩn của WHO vào năm 2000. Các hoạt động phòng chống HIV/AIDS, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng được đẩy mạnh và bước đầu đạt hiệu quả tốt; chương trình kết hợp quân dân y đã nâng cấp cho trên 240 trạm y tế vùng biên giới, vùng sâu, hải đảo.
4. Hoạt động của màng lưới khám chữa bệnh đã có nhiều tiến bộ, nền nếp làm việc trong bệnh viện đã có những thay đổi cơ bản. Hệ thống cung cấp các dịch vụ y tế được mở rộng, tỷ lệ người ốm nhận được các dịch vụ chăm sóc y tế tăng lên. Nhiều kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị đã được áp dụng thành công và phổ biến ở nước ta như nong động mạch vành, mổ tim, mổ nội soi, ghép tạng, thụ tinh trong ống nghiệm… công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực. Nhờ thực hiện Quyết định 139/2003/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về khám chữa bệnh cho người nghèo, trên 80% người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ y tế miễn phí. Mạng lưới y tế tư nhân đã phát triển nhanh chóng và góp phần tích cực vào công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
5. Mạng lưới y dược học cổ truyền được củng cố và phát triển, 70% số tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương có bệnh viện y học cổ truyền. Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam được thành lập đầu năm 2005 góp phần vào việc nâng cao chất lượng và số lượng đầo tạo cán bộ về y dược học cổ truyền.
6. Công tác đào tạo có chuyển biến tích cực, bước đầu đáp ứng được nhu cầu cán bộ cho y tế cơ sở, cũng như cán bộ cho cácc chuyên khoa và y tế chuyên sâu. Tính đến năm 2005 đã đào tạo trên 400 bác sĩ chính quy theo phương thức cử tuyển và trên 100 sinh viên dự bị đại học cho cácc tỉnh Tây Nguyên và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các trường đại học Răng hàm mặt, đại học y dược Cần Thơ, đại học Y tế công cộng, đại học điều dưỡng Nam Định, trường Cao đẳng kỹ thuật y tế Hải Dương, Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam đã được thành lập. Công tác nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh và từng bước áp dụng những công nghệ, kỹ thuật y tế tiên tiến trên thế giới vào chẩn đoán và điều trị bệnh.
7. Công tác quản lý, sản xuất, cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế có nhiều tiến bộ. Ngành Dược tiếp tục phát triển, đảm bảo cung ứng thường xuyên và đủ thuốc thiết yếu có chất lượng đến người dân, công nghiệp sản xuất thuốc từng bước được hiện đại hoá. Giá trị sản xuất và kinh doanh thuốc tăng bình quân trên 10%/năm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về thuốc; đã triển khai nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường thuốc ở Việt Nam. Một số nhà máy, xí nghiệp sản xuất trang thiết bị y tế đã được đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ.
8. Các chỉ số sức khoẻ người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, tuổi thọ trung bình đạt 71,3 . Năm 2005, tỷ suất chết mẹ còn 0,7 ‰, tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi là 18‰, giảm khoảng 2 lần trong vòng 10 năm gần đây. Nhìn chung các chỉ số tổng quát về sức khoẻ của nhân dân đã tốt hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.
|  |
| Các đại biểu tham dự Hội nghị tổng kết công tác y tế | năm 2005 và triển khai kế hoạch năm 2006 |
Trong năm 2005, với tinh thần đoàn kết một lòng, các cán bộ y tế, bao gồm cả quân và dân y, y tế các Bộ, ngành,... đã nỗ lực phấn đấu vực lên mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Những kết quả nổi bật của năm qua bao gồm:
-Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều chính sách quan trọng đối với ngành Y tế, đặc biệt là Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, Quyết định 243/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị định 63/2005 NĐ-CP của Chính phủ về Bảo hiểm y tế, đảm bảo về cơ bản quyền lợi của người có thẻ BHYT, góp phần mạnh mẽ vào việc thực hiện BHYT toàn dân đến năm 2010. Cũng trong năm 2005, Thủ Tướng Chính phủ ra Nghị định 36/2005/NĐ-CP trong đó có phần khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi.
-Xây dựng và trình Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách về quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. cũng như các chế độ, chính sách cho cán bộ y tế. Lấn đầu liên cán bộ, viên chức trực tiếp phục vụ ở các cơ sở y tế được hưởng phụ cấp ưu dãi nghề từ 15-50% (theo Quyết định số 276 QĐ-TTG ngày 01/11 / 2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề cho ngành Y tế). Chính sách bảo hiểm xã hội cho cán bộ y tế xã cũng được triển khai, góp phần giải quyết những bức xúc lâu nay về chế độ đối với cán bộ y tế cơ sở;
-Quốc hội đã phê chuẩn luật Dược ngày 14 tháng 6 năm 2005, tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực dược.
-Các Dự án Luật phòng chống HIV/AIDS, Dự án Luật hiến, lấy, ghép mô và bộ phận cơ thể người đang được hoàn chỉnh để trình Quốc hội trong kỳ họp tới.
-Thực hiện thành công những giải pháp nhằm bình ổn giá thuốc, đảm bảo quyền lợi của người bệnh (Theo Tổng cục thống kê: năm 2005 giá thuốc tăng 4,8%; chỉ giá chung tăng 8,4%). Ngành Dược tiếp tục được phát triển, đảm bảo cung ứng thường xuyên và đủ thuốc thiết yếu có chất lượng đến người dân. Sản xuất được thuốc điều trị HIV/AIDS với giá rẻ.
-Chủ động chỉ đạo và triển khai kịp thời các biện pháp phòng chống dịch bệnh, ngăn chặn sự bùng phát của các vụ dịch, đặcbiệt là bệnh cúm A(H5N1), dịch sốt xuất huyết..
-Tiếp tục phát triển kỹ thuật y học cao. Thực hiện thành công ba ca ghép gan, đặc biệt có một ca ghép gan cho bệnh nhi; ứng dụng rộng rãi kỹ thuật ghép tạng, phẫu thuật nội soi, áp dụng kỹ thuật mổ sọ não bằng dao mổ Gramma, thụ tinh trong ống nghiệm,...; cháu bé thứ 2000 đã được ra đời bằng phưng pháp thụ tinh trong ống nghiệm.
-Tổ chức thành công hệ thống bệnh viện vệ tinh cấp cứu nội, ngoại khoa của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Chợ Rẫy với vệ tinh là các bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố khác.
-Đẩy mạnh công tác quy hoạch phát triển ngành, đặc biệt là quy hoạch mạng lưới khám chữa bệnh; tiếp tục hoàn chỉnh và thực hiện các đề án nâng cao năng lực hoạt động của y tế cơ sở, đề án phát triển xã hội hoá công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân,.. .
-Tăng cường đầu tư cho y tế cơ sở, đặc biệt là đầu tư nâng cấp bệnh viện huyện và bệnh viện đa khoa khu vực. Các địa phương tích cực thực hiện Chuẩn Quốc gia về y tế xã và phong trào xây dựng ''làng văn hóa sức khoẻ''; nhiều tỉnh đã đạt tỷ lệ xã đạt Chuẩn quốc gia về y tế khá cao.
-Thành lập Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam- cơ sở đào tạo đầu tiên chuyên về y học cổ truyền. Thực hiện có kết quả các đề án đào tạo bác sĩ cử tuyển chính quy cho con em dân tộc vùng sâu, vùng xa.
 |  |
Quang cảnh tại hội nghị | |
Các cơ chế chính sách trên đã tác động mạnh đến việc thay đổi nhận thức đối với công tác y tế. Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới đã làm thay đổi cơ bản nhận thức của lãnh đạo chính quyền các cấp đối với công tác y tế; chính quyền các cấp ngày càng quan tâm đầu tư hơn cho lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Sự tham gia tích cực của các phương tiện thông tin đại chúng đã góp phần lám cho cán bộ y tế nhận rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong quản lý, tổ chức cơ sở khám chữa bệnh, và phục vụ người bệnh, từ đó nâng cao đạo đức nghề nghiệp, cũng như tinh thần trách nhiệm đối với công việc. Trong thời gian qua, đã có sự chuyển biến lớn trong thái độ và tinh thần phục vụ của cán bộ y tế ở các cơ sở khám chữa bệnh, nên có rất nhiều thư khen ngợi các bác sĩ, điều dưỡng viên, y tá, hộ lý,. . . gửi đến Bộ Y tế và Báo Sức khỏe & Đời sống. Cùng với các phương tiện thông tin đại chúng, các đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam,... cũng tích cực tham gia vào công tác thông tin, giáo dục truyền thông về sức khỏe. Nhờ đó, nhận thức của người dân về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cũng đã có nhiều thay đổi, cộng đồng xã hội đã quan tâm nhiều hơn đến việc bảo vệ sức khỏe nhân dân và công tác y tế.
Bộ trưởng nhiệt liệt biểu dương và cảm ơn tất cả các cán bộ, công chức, viên chức y tế, quân y, dân y và y tế các Bộ, ngành trong cả nước đã tích cực đóng góp cho sự phát triển ngành y tế để hoàn thành tốt nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Thay mặt toàn thể cán bộ và công chức viên chức ngành y tế cảm ơn sự quan tâm và chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, và chính quyền các cấp cảm ơn các Bộ ngành, đoàn thể đã tích cực hợp tác, hỗ trợ ngành y tế hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Dù đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong năm 2005, ngành y tế thực tế vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức. Mặc dù ngân sách nhà nước dành cho y tế trong năm 2006 có tăng so với năm 2005, nhưng còn quá thấp so với nhu cầu thực tế. Trong khi đó, cơ sở vật chất và trang thiết bị của rất nhiều cơ sở y tế đã xuống cấp nghiêm trọng, thiếu nguồn nhân lực có đủ năng lực và trình dộ, tình hình bệnh tắt và dịch bệnh trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, đời sống của đa số cán bộ y tế còn rất nhiều khó khăn,...
Trong báo cáo kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế năm 2006, Bộ Y tế đã đưa ra định hướng chủ yếu cho giai đoạn 2006-2010 và những nội dung hoạt động trong năm tới. Để có thể thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra, trong năm 2006 chúng ta cần đặc biệt chú trọng đến một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
1.Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị và về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; thực hiện tốt Chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết này. Tổ chức xây dựng và thực hiện 41 đề án, dự án theo Quyết định 243 QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị. Thực hiện quy hoạch tổng thể, quy hoạch vùng và phát triển hệ thống y tế một cách toàn diện, bao gồm cả y tế công lập và y tế ngoài công lập.
2.Tập trung chỉ đạo công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm; hoàn thiện hệ thống chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của nhà nước về bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
3. Tập trung phát triển nguồn nhân lực y tế, đây là giải pháp cơ bản để đảm bảo cho phát triển ngành y tế một cách vững chắc, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ y tế, chú trọng đào tạo kỹ thuật viên, đào đạo đại học và sau đại học cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng sông Cửu Long, và các tỉnh miền Trung.
4.Về công tác y tế dự phòng, tập trung vào việc xây dựng và hoàn thiện mạng lưới y tế dự phòng từ trung ương tới cơ sở; chủ động phòng chống dịch, tăng cường phát hiện, giám sát chặt chẽ và dập tắt kịp thời các ổ dịch; không để cho dịch lớn xảy ra. Tập trung thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế để chủ động chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Mở rộng nội dung và quy mô phong trào xây dựng “Làng văn hóa sức khỏe''; triển khai tích cực hơn nữa công tác huy động nguồn lực xã hội và viện trợ quốc tế cho các hoạt động nâng cao chất lượng cuộc sống và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.
5.Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở đẩy nhanh tiến độ thực hiện chuẩn quốc gia về y tế xã. Thực hiện có hiệu quả đề án ''Nâng cấp bệnh viện huyện và bệnh viện đa khoa khu vực giai đoạn 2006-2008”. Xây dựng và triển khai đề án nâng cao năng lực trạm y tế xã ngay từ đầu năm 2006 lám động lực thúc đẩy việc thực hiện chỉ tiêu đạt trên 75% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã vào năm 2010. Nâng cao chất lượng dịch vụ của mạng tới bệnh viện; tiếp tục phát triển mô hình hệ thống bệnh viện vệ tinh trong hoạt đông chuyên môn thuộc các lĩnh vực: Nội, Ngoại khoa và các chuyên khoa sâu. Tiến hành đồng bộ việc phát triển y tế nhuyễn sâu và y tế phổ cập; củng cố và phát triển mạng lưới y học cổ truyền. Song song với việc tạo điều kiện cho các cơ sở y dược tư nhân phát triển, tăng cường quản lý nhà nước đối với khu vực này.
6.Tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân cũng như các chính sách cho cán bộ y tế.
7. Phát huy nội lực và quyền chủ dộng trong chỉ đạo, tăng cường vai trò quản lý nhà nước và điều hành các dợn vị y tế. Tranh thủ viện trợ quốc tế và triển khai mạnh mẽ Nghị quyết 05 của Chính phủ về xã hội hoá để tăng thêm nguồn lực đầu tư phát triển ngành y tế trong 5 năm tới.
Bộ trưởng đề nghị Hội nghị tập trung thảo luận những vấn đề cấp bách hiện nay của ngành và đề xuất các giải pháp thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 5 năm tới 2006-2010.