Sự rối loạn và bất thường các yếu tố về mặt sinh thái đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự xuất hiện và tăng sinh sốt rét cũng như một số bệnh lý liên quan đến ký sinh trùng (chủ yếu bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người).
Nhóm bệnh này bao gồm bệnh do đơn bào Leishmaniasis, Cryptosporidiosis, Giardiasis, Trypanosomiasis, bệnh do sán giun Schistosomiasis, bệnh giun chỉ như Filariasis, onchocerciasis và Loiasis (một số bệnh tạm không dịch). Mỗi sự biến đổi môi trường, sẽ có hay không xảy ra như một hiện tượng tự nhiên hoặc thông qua sự can thiệp của con người, các thay đổi về cân bằng sinh thái (ecological balance) và trong những bối cảnh mà các vật chủ trong chu kỳ sinh bệnh hoặc vector và nơi sinh trưởng của ký sinh trùng, phát triển và lây truyền bệnh. Mỗi loài chiếm cứ một khoảng sinh thái đặc thù và các quần thể phụ của các loài vector có sự khác nhau về hành vi và đặc tính di truyền vì khi đó chúng thích nghi với môi trường và con người.
Hầu hết các bệnh do động vật truyền và ngược lại (zoonotic parasites) cho thấy có 3 chu kỳ khác nhau: sylvatic, zoonotic, anthroponotic. Để đáp ứng và thích nghi với điều kiện thay đổi môi trường, gồm có quần thể không phải là con người giảm và quần thể con người tăng, một số vector cho thấy có sự chuyển đổi từ một hình thái lây truyền bệnh ái tính với động vật nay lại chuyển ái tính dần sang con người (zoophyllic à anthrophyllic orientation).
Nạn phá rừng và sự thay đổi về diện tích đất sử dụng, cất xây dựng nhà ở của con người, phát triển thương mại, xây dựng đường xá, hệ thống nước (đập, kênh đào, hệ thống tưới tiêu, ổ chứa,…) và biến đổi thời tiết cùng với sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong từ các bệnh ký sinh trùng đang nổi. Sự thay thế rừng với các nông trang, trại nuôi gia súc, gia tăng các động vật nhỏ có thể tạo nên thói quen cho ký sinh trùng biến đổi và di chuyển vật chủ chăng? Khi diện tích đất sử dụng của các vùng rừng bị tàn phá thay đổi, mô hình định cư của con người sẽ phân mảnh và thay đổi có thể tạo ra cơ hội trao đổi và lan truyền ký sinh trùng không chỉ chỉ nhiễm đơn thuần trên người. Các dự án xây dưng thủy điện có thể dẫn đến làm tăng các quần thể vector như thế như ốc và muỗi và các tác nhân gây bệnh của chúng.
Xây dựng đường sá tại các vùng rừng trước đây chưa hề có đường xá có thể dẫn đến hiện tượng xói mòn và nhiều hồ nước đọng do ngăn dòng chảy khi nước dâng trong mùa mưa. Các tác động phối hợp của thiệt hại từ môi trường do sử dụng đất tại chỗ và sự biến đổi của khí hậu toàn cầu lên hệ thống sinh thái tự nhiên và có thể làm tăng nguy cơ lan truyền bệnh ký sinh trùng đến quần thể con người.
1. < script>prs.rt("abs_end"); < /script> Giới thiệu
Việt nam nằm hoàn toàn trong vùng nhiệt đới, các điều kiện khí hậu và địa hình rất thuận lợi cho sự phát triển các loài muỗi truyền bệnh sốt rét. Bệnh sốt rét có mặt ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Từ xa xưa, bệnh sốt rét đã là mối đe dọa to lớn đối với đời sống nhân dân ta, nhất là với đồng bào các dân tộc sinh sống ở các khu vực rừng núi.
Bệnh sốt rét là một bệnh truyền nhiễm do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium gây nên và lây truyền theo đường máu, chủ yếu do muỗi Anopheles mang mầm bệnh đốt máu người để truyền bệnh và từ lâu đã có những quan niệm gắn liền bệnh này với vấn đề môi trường. "Sốt rét rừng", "sốt rét đầm lầy", Sốt rét ngã nước", "rừng thiêng nước độc", ... là những thuật ngữ chỉ rõ sự mắc bệnh sốt rét có liên quan đến yếu tố môi sinh. Sự lây truyền bệnh sốt rét bị tác động, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên, môi trường sinh học và môi trường kinh tế - xã hội.
Tại cùng rừng núi phía Bắc thường do An. minimus truyền. Tại vùng rừng phía Nam thường do An. dirus truyền. Tại vùng nước lợ phía Bắc thường do An. subpictus truyền và tại vùng nước lợ phía Nam thường do An. epiroticus truyền. Nói chung, thay đổi khí hậu rất ảnh hưởng đến phát triển của muỗi. Sự phát triển của muỗi quyết định khả năng truyền bệnh và dẫn tới sự tăng giảm của bệnh.
Tuy nhiên, nhiều phân tích về tác động của thay đổi khí hậu đến bệnh tật thường vẫn hay dẫn bệnh sốt rét ra làm ví dụ. Nếu nước biển tăng lên, diện nước lợ có thể được mở rộng, vùng phát triển của An. subpictus và An. sundaicus (hoặc An.epiroticus) có thể cũng được mở rộng theo và kéo theo đó là sốt rét miền ven biển, sốt rét nước lớ có thể được mở rộng. Mưa nhiều có thể mở rộng diện nước bề mặt và kéo theo đó là mở rộng diện sinh trưởng của muỗi dẫn đến tăng khả năng truyền bệnh và tăng sốt rét nếu như con người không có những biện pháp phòng chống hữu hiệu.
2. Tác động của khí hậu thời tiếttrên sốt rét
2.1.Vấn đề môi trường và bệnh sốt rét
Sốt rét hiện nay vẫn còn là một bệnh có mức lưu hành, tỷ lệ chết và mắc cao cho cộng đồng ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực. Ở Việt Nam, bệnh sốt rét phổ biến phức tạp ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, một số tỉnh ven biển.
Sau nhiều năm thực hiện Chương trình phòng chống, bệnh sốt rét đã được đẩy lùi ở nhiều nơi, tỷ lệ bệnh giảm thấp đáng kể, đặc biệt trong hơn thập kỷ qua. Tình hình sốt rét hiện nay tuy ổn định nhưng vẫn còn là mối đe dọa sức khỏe đối với người dân ở vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa; nguy cơ dịch sốt rét vẫn tiềm ẩn ở nhiều nơi do sự thay đổi môi trường: trồng, phá rừng, các dự án xây dựng phát triển kinh tế, giao thông, thủy điện, thiên tai và di dân tự do...
Mức độ lan truyền sốt rét phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Ký sinh trùng sốt rét, trung gian truyền bệnh (muỗi Anopheles), khối cảm thụ (người) và yếu tố môi trường. Các yếu tố môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên: sinh khí hậu, sinh địa cảnh, thảm thực vật... và các yếu tố kinh tế - xã hội gồm có tập quán, mức sống, hệ thống chăm sóc y tế...
Môi trường tự nhiên như địa hình, khí hậu, thời tiết có tác động đến sự LHSR:
- Nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa và mùa mưa có ảnh hưởng đến sự sinh sản, phát triển của muỗi truyền bệnh và mầm bệnh. Sinh cảnh vừa ảnh hưởng muỗi truyền bệnh vừa ảnh hưởng đến lối sống của người dân. Các biến động về môi trường như phá rừng, làm rẫy, làm thủy điện, mở đường giao thông, xây dựng những khu kinh tế mới về nông nghiệp ven rừng,…sẽ có ảnh hưởng đến sinh thái, tạo điều kiện thuận lợi cho muỗi truyền bệnh phát triển như có thêm nơi trú ẩn…, sốt rét có cơ hội lưu hành và lây truyền.
- Thời tiết nóng nhiều và nóng kéo dài, nâng cao nhiệt độ trung bình nhiều ngày liên tục cũng làm cho muỗi truyền bệnh và ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể muỗi phát triển, làm tăng sự tiếp xúc giữa muỗi truyền bệnh với người. Ở một số nơi, muỗi truyền bệnh chủ yếu đẻ trứng ở những ổ nước đọng, ao hồ, vũng nước, khi mùa mưa nhiều thì mật độ muỗi tăng, làm tăng khả năng lây truyền bệnh sốt rét.
- Vào những năm có thiên tai, bão lụt, lũ quét ở vùng sốt rét lưu hành, mật độ muỗi truyền bệnh sốt rét gia tăng, chất lượng và số lượng nhà cửa, số gia súc sẽ giảm sút, muỗi truyền bệnh có cơ hội tiếp xúc mạnh mẽ với người; trong khi đó con người đang gặp phải sự đói kémvà giảm sức đề kháng. Vì vậy, bão lụt, lũ quét là những yếu tố thúc đẩy sốt rét phát triển nên cần có kế hoạch tích cực phòng tránh. Ngoài ra, những sự thay đổi khác về môi trường tự nhiên đã và đang xảy ra do thiên tai hay do con người rạo nên sẽ có tác động rất lớn đến tình hình sốt rét tại địa phương .
Môi trường sinh học gồm những sinh vật như động vật rừng, động vật nuôi, thủy sinh ... Động vật có tác dụng làm mồi thu hút muỗi truyền bệnh đến hút máu, do đó làm giảm mật độ muỗi đến hút máu người, hạn chế sự lây truyền bệnh. Nếu làm chuồng trại, chăn nuôi gia súc ở gần nhà, muỗi truyền bệnh ngoài đốt máu gia súc thì con người cũng dễ có nguy cơ bị muỗi truyền bệnh đốt máu và gây bệnh. Các loài thủy sinh ăn bọ gậy muỗi truyền bệnh có thể dùng làm phương tiện sinh học để chống muỗi.
Môi trường kinh tế-xã hội có thể làm tăng hoặc làm giảm nguy cơ sốt rét. Các hoạt động kinh tế của con người như mở kênh thủy lợi, đào ao hồ, chặt tre nứa để lại gốc, cấy ruộng bậc thang, trồng cói, trồng cao su, cà phê ... làm tăng chỗ muỗi đẻ. Nhân dân đi vào các vùng sốt rét lưu hành nặng để buôn bán, khai thác vàng, đá quý, trầm hương, xây dựng kinh tế mới, làm nương rẫy, canh giữ sản phẩm trồng, làm đường giao thông, bộ đội chiến đấu, canh gác biên giới ... làm tăng sự tiếp xúc giữa con người với muỗi truyền bệnh. Nhiều hoạt động kinh tế với lao động quá sức, sinh hoạt tạm bợ, làm giảm sức đề kháng của cơ thể. Việc di cư của nhân dân với mục đích kinh tế có tổ chức hay không có tổ chức, đi từ vùng không có sốt rét vào vùng sốt rét nặng, đi ở hẳn hay đi về từng đợt là những yếu tố làm cho tình hình càng thêm phức tạp. Trong một số tình huống có thể gây ra dịch sốt rét với quy mô khác nhau và làm cho sốt rét thêm trầm trọng.
Ngược lại, các hoạt động kinh tế của con người như khai thông mương máng, chuyển đổi dòng suối, lấp ao hồ, phát quang chung quanh nhà để làm vườn, tăng đàn gia súc, thả cá, nâng cao mức sống, xây dựng hoạt động y tế và tổ chức phòng chống sốt rét có thể làm giảm nguy cơ sốt rét.
Vấn đề phát triển kinh tế và sốt rét có mối quan hệ với nhau. Tác hại của sốt rét như mất người lao động, mất sức lao động, mất tiền chữa bệnh, vỡ kế hoạch sản xuất ... sẽ gây nên những thiệt hại về kinh tế. Nếu đầu tư vào công tác phòng chống sốt rét một cách thoả đáng, thực hiện các biện pháp có hiệu quả thì có thể làm giảm hoặc tránh được thiệt hại do sốt rét, có được lợi ích về cả vật chất lẫn tinh thần.
Các yếu tố xã hội như nghề nghiệp, mức sống và trình độ hiểu biết của nhân dân cũng ảnh hưởng đến sự lây truyền bệnh sốt rét. Những vùng sốt rét lưu hành nặng thường là những vùng xa xôi, hẻo lánh, giao thông liên lạc khó khăn. Ở những vùng này, nghề nghiệp của nhân dân thường không ổn định, tình trạng đi rừng, làm rẫy, khai thác lâm thổ sản, buôn bán, trao đổi hàng hóa, thăm thân do có quan hệ đồng tộc ở biên giới ... còn xảy ra phổ biến. Một bộ phận nhân dân thường xuyên thiếu lương thực, làm không đủ sống, dân cư phân tán, du canh du cư hoặc đã định cư nhưng còn du canh gây nhiều khó khăn cho công tác phòng chống sốt rét. Mặt khác, trình độ hiểu biết của nhân dân và chất lượng hoạt động của y tế cơ sở tại các vùng sốt rét lưu hành nặng còn có nhiều hạn chế cũng là thực trạng đáng quan tâm.
Vấn đề môi trường và bệnh sốt rét có mối quan hệ đã được xác định. Phòng chống bệnh sốt rét muốn có hiệu quả phải có sự hỗ trợ của việc bảo vệ môi trường, nghiêm cấm các hành vi phá hại môi trường sống.
2.2. Tác nhân gây bệnh sốt rét.
Tác nhân gây bệnh sốt rét cho người gồm 4 loại ký sinh trùng Plasmodium spp.
Plasmodium falciparum chiếm tỷ lệ nhiều nhất (80% trường hợp chung). Loại ký sinh trùng này gây bệnh có thể lâm sàng nặng và đưa đến tử vong cao (gây sốt rét ác tính) và Plasmodium vivax. Hai loại này thường hay gặp ở Việt Nam.
Plasmodium malariae và Plasmodium ovale chỉ gặp ở tỷ lệ thấp. Ngoài ra còn có loại Plasmodium khác như Plasmodium berghei, P. knowlesi… gây bệnh cho chuột và khỉ. Plasmodium sống ký sinh ở 2 ký chủ ở cơ thể người và cơ thể muỗi.
- Hiện nay, bệnh sốt rét do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium knowlesi phát hiện ở người đã được thông báo với số lượng lớn tại Malaysia. Đa số các trường hợp phát hiện ở Borneo thuộc Malaysia và nhiều trường hợp cũng được phát hiện ở bán đảo Malaysia. Các nhà nghiên cứu khoa học cũng thông báo một số trường hợp sốt rét do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium knowlesi đã hiện diện ở một số nước lân cận như Thái Lan, Singapore, Brunei, Indonesia, Myanmar, Việt Nam và Philippines... Hình như P. knowlesi là chủng loại ký sinh trùng sốt rét tự nhiên ký sinh ở loài khỉ Macaques đều có mặt tại hầu hết các quốc gia thuộc khu vực Đông nam Á. Sự phân bố rộng rãi các trường hợp bệnh bị nhiễm Plasmodium knowlesi phát hiện được ở người đã cảnh báo Plasmodium knowlesi có thể gây nhiễm cho người.
Thời kỳ ở cơ thể muỗi:
Trong các bệnh do muỗi truyền, ký sinh trùng gây nên bệnh sốt rét có giai đoạn ký sinh ở cơ thể muỗi để thực hiện vai trò truyền bệnh khi đốt máu và truyền mầm bệnh sang người lành. Ký sinh trùng sốt rét muốn phát triển được trong cơ thể muỗi cần có những điều kiện cơ bản.
Các nhà khoa học đã chứng minh được 3 điều kiện cơ bản để ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) có thể phát triển được trong cơ thể muỗi là phải có loài muỗi thích ứng, có đủ thời gian để mầm bệnh hoàn thành giai đoạn sinh trưởng trong cơ thể muỗi và có nhiệt độ ở ngoài trời thích hợp đối với từng loại KSTSR.
Loài muỗi thích ứng truyền bệnh sốt rét đã được xác định là loài Anopheles. Tại nước ta có 59 loài Anopheles, trong đó 15 loài là muỗi truyền bệnh chính, truyền bệnh phụ và nghi ngờ truyền bệnh.
Muỗi truyền bệnh chính gồm có 3 loài Anopheles minimus hoạt động ở vùng rừng núi trên toàn quốc, Anopheles dirus hoạt động ở vùng rừng núi từ 20 vĩ độ Bắc trở vào Nam và Anopheles sundaicus hoạt động ở vùng ven biển nước lợ Nam Bộ.
Sự xuất hiện Anopheles marajoara như một tác nhân lan truyền sốt rét mới
Tại bang Amapá ở vùng đông bắc của Amazonia, một trong những loài muỗi tân nhiệt đới mới (new neotropical species) của anopheles đã được xác định như một vector chính nổi trội đang xuất hiện. Trong năm bộ thu thập từ các vùng gần thành phố Macapá, bang Amapá trong 1996-1997, An. marajoara được tìm thấy một lượng lớn hơn nhiều trong suốt các tháng đỉnh lan truyền bệnh tháng 6-8 và 11-12 hơn là các vector chính trong vùng này trước đó xác định, An. darlingi.
Ngoài ra, P. falciparum và P. vivax cũng được tìm thấy với tỷ lệ cao hơn có ý nghĩa trong quần thể có mặt An. marajoara hơn so với vùng có An. darlingi. Các dữ liệu từ Fundacao Nacional de Saude cũng chỉ ra sự xuất hiện số ca sốt rét mớitrong suốt những tháng khi không có An. darlingi thu thập được. Thay vì tại bang Amapá, một tỷ lệ mắc cao An. marajoara cũng đã là bằng chứng. Ước tính có 500.000 ca sốt rét mỗi năm tại Brazil, mà trước nay vector chính cũng chỉ là An. darlingi. Qua nhiều năm qua, ELISA và soi kính hiển vi dạ dày muỗi, các nhà nghiên cứu đã xác định một bộ loài muỗi sốt rét tân nhiệt đới mới (set of neo-tropical species) như thể các vectors mới tiềm tàng và vô cùng quan trọng. Phức hợp loài An. albitarsis s.l. gồm có 4 loài: An. albitarsis s.s., An. deaneorum, An. marajoara, An. albitarsis sp.
Những yếu tố sinh thái và môi trường mới dẫn đến xuất hiện vector mới?
Ba yếu tố sinh thái dẫn đến sự xuất hiện An. marajoara như một vector chính tại vùng đông bắc của Amazonia: Sự thay đổi gần đây về việc sử dụng đất tại bang Amapá; Nhóm dân di biến động của con người, quần thể muỗi và các vùng muỗi đẻ và tính ưa đốt người của An. Marajoara hơn so với An. darlingi.
Vào lúc này, các thử nghiệm đã tiến hành, thành phố thủ đô Amapá, Macapá, thực hiện các công trình công nghiệp có ý nghĩa, gồm có xây dựng đường xá đi ngang qua nhiều khu rừng và thiết lập các vùng tự do. Cả sự thay đổi đó nhìn chung làm cho tăng lên tình hình giao thông cũng như hấp dẫn muỗi đến. Nhiều quần thể dân di biến động, đã nhiễm phải sốt rét là một minh chứng.
Thời gian để mầm bệnh KSTSR hoàn thành giai đoạn sinh trưởng trong cơ thể muỗi cần điều kiện muỗi phải sống đủ lâu để nang trùng (oocyste) của ký sinh trùng ở thành dạ dày muỗi có thời gian phát triển thành thoa trùng (sporozoite) ký sinh ở tuyến nước bọt của muỗi. Khi muỗi đốt máu, mầm bệnh sẽ truyền thoa trùng sang cho người lành để gây bệnh.
Nhiệt độ ngoài trời thích hợp đối với từng loại KSTSR cũng là điều kiện cần thiết để mầm bệnh có thể phát triển được trong cơ thể muỗi truyền bệnh.
Chủng loại KSTSR Plasmodium falciparum, Plasmodium malariae cần nhiệt độ tối thiểu ở ngoài trời phải lớn hơn 16oC. Chủng loại KSTSR Plasmodium vivax cần nhiệt độ tối thiểu ở ngoài trời phải lớn hơn 14.5oC.
Nếu nhiệt độ ở ngoài trời thấp hơn nhiệt độ tối thiểu này thì KSTSR không có khả năng phát triển được trong cơ thể muỗi.
Các nhà khoa học đã xác lập được công thức tính thời gian hoàn thành giai đoạn phát triển hữu tính trong chu kỳ phát triển của từng chủng loại KSTSR ở cơ thể muỗi truyền bệnh.
Theo công thức này để tính toán: Chủng loại KSTSR Plasmodium falciparum cần 26 ngày để phát triển ở nhiệt độ từ 19-20oC, cần 12 ngày để phát triển ở nhiệt độ 25oC, cần 8 ngày để phát triển ở nhiệt độ 30oC. Chủng loại KSTSR Plasmodium vivax cần 45 ngày để phát triển ở nhiệt độ từ 16-17oC, cần 19 ngày để phát triển ở nhiệt độ 20oC, cần 10 ngày để phát triển ở nhiệt độ 25oC, cần 6,5 ngày để phát triển ở nhiệt độ 30oC. Chủng loại KSTSR Plasmodium malariae cần 18 ngày để phát triển ở nhiệt độ 24oC, cần 16 ngày để phát triển ở nhiệt độ 25oC.
Như vậy để đảm nhận được vai trò truyền bệnh sốt rét, tại địa phương nơi bệnh lưu hành phải có loài muỗi Anopheles thích ứng hoạt động, muỗi phải có tuổi thọ có nghĩa là phải sống đủ lâu để KSTSR có thể phát triển được các giai đoạn trong cơ thể của nó và nhiệt độ ngoài trời phải thích hợp đối với từng chủng loại KSTSR gây bệnh ký sinh ở cơ thể muỗi. Điều này đã được chứng tỏ tại các nước, các khu vực, các vùng núi cao có khí hậu mát mẻ và lạnh quanh năm thường không có bệnh sốt rét lưu hành.
Phân bố địa lý của vector muỗi gây bệnh sốt rét ở người (Medicalecology.org)
Bắc Mỹ và Mexico - An. freeborni
- An. quadrimaculatus
- An. pseudopunctipennis
| Trung Mỹ - An. albimanus
- An. aquasalis
- An. darlingi
| Nam Mỹ - An. nigrrimus
- An. albimanus
- An. aquasalis
- An. darlingi
- An. nuneztovari
- An. anthrophagus
- An. pseudopunctipennis
|
Bắc Eurasia - An. stevensi
- An. atroparvus
- An. fluviatillis
| Vùng địa trung hải - An. atroparvus
- An. labranchiae
- An. superpictus
- An. maculapennis
| Afro-Arabian - An. phaeroencis
- An. sergentii
|
Châu Phi nhiệt đới - An. arabiensis
- An. funestus
- An. gambiae
| Indo-Iranian - An. culcifacies
- An. fluviatilis
- An. stevensi
| Indo-Chinese Hills |
Malaysia - An. aconitus
- An. balabacensis
- An. dirus
- An. donaldi
- An. flavirostris
- An. letifer
- An. maculates
- An. minimus
- An. sundaicus
| Trung Quốc | Australia - An. punctulatus
- An. faraudi
|
Giai đoạn sinh sản vô tính trong cơ thể người
Giai đoạn sinh sản vô tính trong cơ thể người chia làm hai thời kỳ, thời kỳ phát triển trong gan và thời kỳ sinh sản vô tính trong hồng cầu. Quá trình cụ thể như sau: muỗi Anopheles mang mềm bệnh (thoi trùng) đốt người, thoi trùng từ muỗi truyền vào máu ngoại biên của người. Thoa trùng chủ động tìm đường xâm nhập vào gan, vì tại giai đoạn đó máu không phải là môi trường thích hợp cho thoa trùng tồn tại và phát triển, thời gian chúng ở trong máu chỉ dưới 1 giờ đồng hồ. Thoa trùng xâm nhập tế bào gan và bắt đầu phân chia, đến một lượng nhất định làm tế bào gan bị vỡ ra giải phóng những ký sinh trùng mới, đây là giai đoạn phát triển của nhiều thoa trùng.
Từ gan vào máu, ký sinh trùng xâm nhập hồng cầu, chúng sinh sản vô tính tại đây đến mức độ đầy đủ làm vỡ hồng cầu giải phóng ký sinh trùng, đại bộ phận những ký sinh trùng này sẽ lại thâm nhập vào hồng cầu khác để tiếp tục sinh sản vô tính. Nhưng một số mảnh ký sinh trùng khác trở thành những thể giao bào đực cái, nếu muỗi hút những giao bào này, chúng sẽ phát triển chu kỳ hữu tính ở muỗi, nếu không được muỗi hút thì sau một thời gian sẽ bị tiêu hủy.
Khoảng thời gian cần thiết để hoàn thành chu kỳ vô tính trong hồng cầu tùy từng chủng loại Plasmodium, có thể từ 40 đến 72 giờ |
Hình 2: Chu kỳ phát triển của ký sinh trùng sốt rét |
3. Mùa truyền bệnh của muỗi sốt rét.
Ở Việt Nam trước đây đã có nhiều nghiên cứu về mùa truyền bệnh. Những năm 1958-1961, ở miền Bắc, Viện SR-KST-CT TƯ đã tiến hành các nghiên cứu mùa truyền bệnh sốt rét ở Bạch Thông (Bắc Cạn), Ngọc lạc (Thanh Hóa), Đại Từ (Thái Nguyên), Hải Hậu (Nam Hà).
Năm 1976, các nghiên cứu mùa truyền bệnh tiếp tục được tiến hành tại Vân Canh (Bình Định), Lắc (Dak Lak), Đồng Xoài (Sông Bé), Phong Phú (TP.Hồ Chí Minh). Các kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Sốt rét ở Việt Nam lây truyền quanh năm, có 1 đến 2 đỉnh cao tùy vùng, tùy muỗi sốt rét chính và liên quan chặt chẽ với mùa mưa.
- Những vùng có An.minimus, mùa sốt rét có 2 đỉnh cao: một đỉnh vào đầu mùa mưa và một đỉnh vào cuối mùa mưa. Ở miền Bắc đỉnh cao đầu mùa mưa cao hơn đỉnh cuối mùa mưa. Ở miền Trung và Tây Nguyên đỉnh cao hơn vào cuối mùa mưa.
-Những vùng có An.dirus, chỉ có 1 đỉnh cao giữa mùa mưa, nhưng tỷ lệ mắc sốt rét trong suốt mùa mưa đều cao hơn mùa khô.
- Những vùng có cả An.minimus và An.dirus đỉnh cao của mùa sốt rét kéo dài từ đầu mùa mưa cho đến cuối mùa mưa.
- Những vùng ven biển nước lợ mà muỗi chính là An.sundaicus (An.epiroticus) và nhóm muỗi phụ An.subpictus, An. vagus, An.sinensis, An.aconitus thì đỉnh cao vào mùa mưa. Riêng với An.epiroticus thì giữa mùa mưa to, nồng độ muối giảm nhiều, bọ gậy kém phát triển thì mật độ muỗi giảm nhiều.
Trong thời gian 1995 – 1998, các nghiên cứu mùa truyền bệnh tại miền Trung-Tây Nguyên tiếp tục được triển khai tại Vân canh (Bình Định), Khánh Vĩnh (Khánh Hòa), Chư Sê (Gia Lai) cho thấy:
- Mùa truyền bệnh ở miền Trung Tây Nguyên duy trì quanh năm, có 2 đỉnh cao là: đỉnh thứ 1 vào mùa khô (tháng 3, 4, 5) và đỉnh thứ 2 cao hơn vào mùa mưa (tháng 9, 10, 11).
- An.minimus đóng vai trò quan trọng nhất trong quá trình lây truyền bệnh sốt rét và An.dirus là muỗi chính góp phần gia tăng mức độ truyền bệnh sốt rét vào các thánh mùa mưa.
- Tại Vân Canh, Bình Định mùa truyền bệnh sốt rét quanh năm và có 1 đỉnh cao là tháng 8,9,10.
- Tại Khánh Vĩnh, Khánh Hòa mùa truyền bệnh sốt rét quanh năm, có 2 đỉnh bệnh là tháng 4-5 và tháng 9,10,11.
- Tại Chư Sê, Gia Lai mùa truyền bệnh sốt rét quanh năm nhưng có 1 đỉnh cao của bệnh là tháng 9,10,11.
- Vào những năm 1994-2000, đề tài nghiên cứu mùa truyền bệnh sốt rét tại Vân Canh (Bình Định) cho thấy:
- Vân Canh là huyện miền núi mang tình chất đầy đủ của đặc điểm tự nhiên và nhân văn vùng Đông Trường Sơn.
- Tại đây có An.minimus phát triển quanh năm với 2 đỉnh cao: đỉnh thứ nhất vào các tháng 4, 5 thấp hơn đỉnh thứ hai vào các tháng mùa mưa 10, 11. Hai đỉnh này nằm giữa mùa khô và cuối mùa mưa đầu mùa khô ở Vân Canh. Đây là muỗi chính giữ vai trò truyền bệnh tại Vân Canh, bên cạnh đó An.dirus là muỗi chính nhưng phát triển chủ yếu vào mùa mưa.
- Bệnh sốt rét lây truyền quanh năm nhưng chỉ có 1 đỉnh cao vào mùa mưa (tháng 9, 10, 11). So với 1995-1998, mùa bệnh sốt rét tại Vân Canh năm 2000 chưa có gì thay đổi, bệnh sốt rét vẫn phát triển vào đỉnh cao trong các tháng 9, 10, 11.
- Có thể giải thích mối quan hệ của muỗi với chế độ khí hậu của khu vực như sau: mùa mưa ở Vân Canh thường bắt đầu khá đột ngột, lượng mưa tăng cao với số ngày mưa kéo dài ngay ở tháng đầu tiên nên đã pha hủy các ổ sinh đẻ quen thuộc của muỗi, các ổ mới hình thành đòi hỏi phải có thời gian để ổn định mới phù hợp cho sợ phát triển của bọ gậy. Chính vì vậy mật độ muỗi vẫn hạ thấp ở tháng đầu mùa mưa.
- Thời gian cuối mùa mưa đầu mùa khô mật độ muỗi đang ở đỉnh cao nhất, nó chỉ giảm xuống khi nhiệt độ hạ thấp (thường dưới 240C). Cho đến tháng 3, các ổ nước được tạo thành trong mùa mưa đã mất rất nhiều làm cho mật độ quần thể giảm xuống. Đỉnh cao mùa khô của muỗi chủ yếu là do nhiệt độ tăng lên làm tăng tuổi thọ của quần thể muỗi trưởng thành, song do nhiệt độ quá cao (trên 300C) kéo dài cùng với ẩm độ thấp (dưới 700C) thì lại làm tỉ lệ tử vong của muỗi. Chính vì vậy đỉnh mùa khô của muỗi thường không cao lắm và không kéo dài.
Những thay đổi về sinh thái môi trường, sinh thái người và các yếu tố kinh tế xã hội, văn hóa y tế có tác động đến mùa truyền bệnh sốt rét. Số liệu thống kê tại miền Trung-Tây Nguyên cho thấy trong những năm trở lại đây, tỷ lệ mắc bệnh sốt rét tập trung vào các tháng 9, 10, 11 ở cả 2 khu vực.
Hiện nay dưới tác động của biến đổi khí hậu, nhiệt độ nóng lên có thể làm thay đổi mùa truyền bệnh sốt rét. Trong những năm 2006-2009, Việt Nam và đặc biệt ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên bệnh sốt rét có xu hướng tăng cao trở lại. Thống kê số bệnh nhân sốt rét hàng tháng theo hệ thống báo cáo thường quy tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên cho thấy số lượng bệnh nhân, tử vong sốt rét ở khu vực này tập trung cao vào các tháng cuối năm. Sự thay đổi diễn biến bệnh trong năm có thể chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Khi có những thay đổi về sinh thái, môi trường; ngừng áp dụng các biện pháp thương quy, biện pháp kém hiệu quả dịch sốt rét có thể xảy ra. Nguy cơ dịch sốt rét xay ra khi có các yếu tố sau:
- Gia tăng bất thường số người không có miễn dịch sốt rét vào vùng sốt rét lưu hành (nhu dân di cư tự do).
- Gia tăng khả năng truyền bệnh của muỗi sốt rét.
- Gia tăng mật độ muỗi sốt rét.
- Thúc đẩy nhanh sự phát triển của chu kỳ ký sinh trùng do khí hậu ấm lên.
- Thay đổi môi trường (thủy lợi, thủy điện…) dẫn đến tăng mật độ muỗi sốt rét.
- Vùng dịch cũ không duy trì các biện pháp phòng chống.
- Kháng thuốc ….
Dịch sốt rét xảy ra khi một nơi có mức bệnh sốt rét (mắc mới) tăng đột ngột so với diễn biến bình thường trong một quần thể dân cư (tối thiểu là một thôn bản, cụm dân cư) và có lan truyền tại chỗ. Dịch sốt rét xảy ra gây thiệt hại về sức khỏe, kinh tế, xã hội. Vì vậy cần phải dự báo sớm nguy cơ dịch xảy ra nhằm xử lý kịp thời.
4. Ảnh hưởng môi trường tự nhiên, sinh học và kinh tế xã hội đối với lây truyền bệnh SR
4.1 Tác động của khí hậu thời tiết đến sốt rét:
Nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa ảnh hưởng đến sự phát triển của muỗi Anopheles.
- Nhiệt độ, độ ẩm và lượng máu ảnh hưởng đến sự phát triển của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể muỗi.
- Độ ẩm tương đối ít ảnh hưởng đến ký sinh trùng sốt rét nhưngrất ảnh hưởng tuổi thọ và hoạt động của muỗi Anopheles. Muỗi Anopheles sống lâu khi độ ẩm tương đối cao và nhiệt độ thích hợp.
- Lượng mưa và mùa mưa ảnh hưởng đến sự phát triển của muỗi Anopheles, đến mật độ và qua đó đến mùa truyền bệnh sốt rét.
- Điều kiện khí hậu liên quan đến tuổi thọ quần thể vì vậy việc theo dõi biến động tuổi thọ của quần thể Véc tơ rất quan trọng trong công tác PCSR vì nó cho phép áp dụng các biện pháp chống véc tơ chính xác vào thời điểm tuổi thọ quần thể véc tơ tăng lên sẽ đạt hiệu quả cao và tiết kiệm. Việc sử dụng hóa chất diệt côn trùng trong phòng chống véc tơ chính là nhằm làm giảm tuổi thọ quần thể véc tơ, giảm khả năng quan hệ với người của chúng.
Mỗi loại khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của từng loài ký sinh trùng sốt rét: vùng nhiệt đới thuận lợi cho cả P. falciparum và P. vivax. Còn ở vùng ôn đới thì P. vivax nhiều hơn, P. falciparum và P. malariae hầu như không có.
Những năm gần đây khí hậu toàn cầu và từng khu vực cũng có sự thay đổi (nóng kéo dài, hạn hán kéo dài, gió lốc, bão, lụt lội…) đã gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình bệnh sốt rét của từng khu vực.
 |
Đo nhiệt độ, độ ẩm tại điểm nghiên cứu Sốt rét Khánh Phú, Khánh Vĩnh, Khánh Hòa |
4.2. Sinh địa cảnh
Sinh địa cảnh vừa ảnh hưởng đến véc tơ truyền bệnh vừa ảnh hưởng đến phương thức sống của nhân dân. Do vây, sinh địa cảnh là một yếu tố quan trọng trong việc phân vùng sốt rét trong việc nghiên cứu mùa sốt rét. Những vấn đề trên lại quan trọng cho việc xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch phòng chống bệnh sốt rét.
Có nhiều nghiên cứu về loài An. dirusđã cho thấy số lượng muỗi ở sinh cảnh bìa rừng rât cao trong khi đó ở sinh cảnh xa rừng thì rất ít. Thế nhưng khi mà nạn phá rừng ngày càng phức tạp thì những loài muỗi này sẽ có khả năng phát tán ra khỏi rừng và bay xa đi tìm mồi.
Sinh cảnh sát rừng có mức lưu hành của bệnh cao, lan truyền dai dẳng, nguy cơ lan truyền bệnh luôn luôn tồn tại. Sinh cảnh bìa rừng có tình hình sốt rét ở mức ổn định vừa, sự lan truyền bệnh mang tính không ổn định. Ở sinh cảnh này rất dễ xảy ra dịch khi các điều kiện môi trường thuận lợi cho sự phát triển của véc tơ. Sinh cảnh xa rừng mang tính chất vùng sốt rét không ổn định, biện pháp chống véc tơ có thể làm gián đoạn sự lan truyền bệnh sốt rét.
 |
Sinh cảnh gần rừng. |
4.3.Môi trường sinh học
Môi trường này gồm những sinh vật: động vật rừng, động vật nuôi, thủy sinh…Tùy nơi, tùy lúc động vật có tác dụng làm mồi thu hút Anopheles đến đốt là hàng rào bảo vệ cho người. Nhiều loại thủy sinh ăn bọ gậy muỗi Anopheles và có thể dùng làm phương tiện sinh học để diệt muỗi ví dụ như cá bảy màu ăn bọ gậy. Cũng có thể trong môi trường có một loài muỗi khác Anopheles phát triển, sinh sản và lấn át các loài muỗi Anopheles truyền bệnh sốt rét.
4.4. Khí hậu, muỗi và bệnh sốt rét
Sự tranh luận vẫn chưa thống nhất về nguyên nhân và tác động của việc biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, cho dù việc thay đổi khí hậu có xảy ra hay không, hoặc những can thiệp của con người có là nguyên nhân gây nên những thay đổi này hay không, hoặc cho dù đó là những tác động gì đi chăng nữa thì vấn đề quan trọng cần phải giải quyết là tìm ra được nguyên nhân cơ bản gây ra bệnh sốt rét cũng như tìm ra những giải pháp thực tế để loại bỏ triệt để những nguyên nhân này.
 |
Nạn phá rừng đã làm thay đổi sinh cảnh cho bệnh sốt rét. |
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa khí hậu và quần thể muỗi lại vô cùng phức tạp. Có hơn 3500 loài muỗi nhưng sinh sản, thức ăn, tập tính sinh học của chúng cũng khác nhau:
- Nhiệt độ tăng và lượng mưa cao cùng với độ ẩm có thể ảnh hưởng tới tỷ lệ mắc phải và các bệnh do côn trùng truyền như bệnh sốt rét do việc hình thành các bể chứa tồn đọng cho phép chúng phát triên nhanh hơn.
- Tại một số khu vực, lượng mưa cao sẽ giúp gội rửa những bể chứa nước đọng, do đó cũng làm giảm quẩn thể muỗi.
Muỗi có khả năng thích nghi cao và có thể sống tốt ở thời tiết nóng và lạnh, vì muỗi là loại côn trùng biến nhiệt, chúng có khả năng thay đổi thức ăn và trì hoãn khả năng sinh sản trong các trường hợp bất lợi.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa việc thay đổi thời tiết và bệnh sốt rét tại đông phi cho thấy rằng “những mối liên hệ được công bố về việc trở lại của mầm bệnh sốt rét tại địa phương và những thay đổi”. Bên cạnh đó, những yếu tố về kinh tế, xã hội và chính trị cũng lý giải điều này.
Những cuộc thảo luận về nguyên nhân của thời tiết liên quan đến bệnh sốt rét và những bệnh do véc tơ truyền đặc biệt quan tâm đến những nguyên nhân và giải pháp tiềm tàng. Chính những hành động của con người mới có tác động lớn đến việc lây lan bệnh sốt réthơn là lý do về thời tiết, cũng như việc khẳng định rằng chất thải của con người làm thay đổi khí hậu.
Nước sạch và vấn đề về vệ sinh là ưu tiên hàng đầu. Tăng cường sự can thiệp của con người vào vấn đề kiểm soát bệnh sốt rét, tuyên truyền, vận động nhân dân ngủ màn, cấp thuốc phun tẩm màn tại các vùng có sốt rét lưu hành.
Ngoài ra kinh tế thịnh vượng cũng cho phép con người có khả năng sử dụng thuốc phòng chống và phương pháp điều trị kịp thời. Trong thời gian dài, kinh tế thịnh vượng đóng vai trò hiệu quả trong việc chống lại các căn bệnh truyền nhiễm.
Giảm thiểu bộ máy quan liêu trong các chính sách về y tế. Các quốc gia đang phát triển cũng cần phải được cho phép phát triển những chính sách riêng của họ bằng cách sử dụng các công cụ và phương pháp theo nhu cầu và sự lựa chọn của họ.
Tài liệu tham khảo
1.  !important; Nguyễn Tuyên Quang, Marchand R.P, Nguyễn Thọ Viễn và ctv (2002), “Ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu lên quần thể Anopheles minimus tại Khánh Phú”, Tạp chí Phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 6: tr 68 -76.
2.  !important; Nguyễn Tuyên Quang. Nghiên cứu muỗi truyền sốt rét chủ yếu và một số yếu tố môi trường con người ảnh hưởng tới tình hình bệnh sốt rét tại huyện Vân Canh, Bình Định. Luận án Tiến sĩ Khoa học Sinh học,1996.
3.  !important; TS. Lê Hữu Thọ, Sức khỏe môi trường, 2009.
4. Vũ Thị Phan (1996), Dịch tễ học bệnh sốt rét và phòng chống sốt rét ở Việt Nam, Nhà xuất bản Y học.
5. Lê Khánh Thuận, Trương Văn Có, Lê Giáp Ngọ (1997), “Sự phân bố Anopheles, vai trò dịch tễ và một số biện pháp hóa chất phòng chống vector ở Miền Trung- Tây Nguyên”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng Quy nhơn, NXB Y học, Hà Nội, tập 1: trang 316-323.
6. Bộ Y Tế (2000), Dịch sốt rét và phòng chống dịch sốt rét ở Việt Nam, NXB Y học.
7. H.M. Gilles, D.A.Warrell “Bruce-Chwatt’s Essential Malariolgy” third edition.
8. Wernsdorfer W.H., McGregor I., eds. Malaria: Principle and practice of malariology, Vol.1 and 2, Edinburg: Churchill Livingstone, 1998.
9. Rosenberg R. Forest malaria in Bangladesh III. Breeding habits of An.dirus. Am. J. Trop. Med. Hyg., 31,1982, p. 192-201.
10. Jonathan A. Patz, Thaddeus K. Graczyk, Nina Geller, Amy Y. Vittor. Effects of environmental change on emerging parasitic diseases.
11. http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0020751900001417
12.  !important; http://wikipedia.org
13. http://www.cdc.gov/