Thực hiện Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã phối hợp với một số bộ, ngành liên quan xây dựng đề án triển khai cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám chữa bệnh của các cơ sở y tế công lập.
Cơ sở xây dựng Nghị định
Cơ sở pháp lý
Kết luận số 20/KL-TW ngày 28/01/2008 Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW khóa X: Đơn vị sự nghiệp được thu phí (giá) dịch vụ y tế tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác, giao cho Thủ tướng Chính phủ xây dựng khung giá viện phí, học phí theo hướng trên. Kết luận số 42-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị, trong đó có giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án đổi mới cơ chếhoạt động, cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế) đối với các cơ sở y tế công lập. Thông báo số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” đã nhấn mạnh: Đổi mới cơ chế tài chính theo hướng tăng cường phân cấp và tăng tính tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập có tính đến đặc điểm từng loại hình dịch vụ, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ quản lý để xác định mức độ, bước đi phù hợp. Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính vàthực hiện có lộ trình việc xóa bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ”, “đi đôi với đổi mới cơ chế, tiếp tục hỗ trợ cho các đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo sử dụng các dịch vụ này”. Nghị quyết 18/2008/QH12 của Quốc hội: Giao Chính phủ sửa đổi bổ sung các quy định về viện phí trên cơ sở tính đúng, tính đủ chi phí phục vụ người bệnh, trong đó có phần kinh phí do ngân sách nhà nước hỗ trợ. Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 27/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 18/2008/QH12 của Quốc hội: giao cho Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ Tài chính, Nội vụ, Tư pháp xây dựng Nghị định đổi mới cơ chếhoạt động, cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế) đối với các cơ sở y tế công lập. Luật khám chữa bệnh giao Chính phủ quy định cơ chế thu, quản lý và sử dụng khoản thu từ dịch vụ khám chữa bệnh trong cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước; Bộ trưởng Bộ Tài chính phối hợp với Bộ trưởng Bộ Y tế quy định khung giá dịch vụ khám chữa bệnh trong cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước. Luật Bảo hiểm Y tế giao Chính phủ quy định mức và hình thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Cơ sở thực tiễn
Cơ chế hoạt động, tài chính của các đơn vị đã có nhiều chuyển biến nhưng vẫn còn nhiều nội dung chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khả năng cung ứng, chất lượng dịch vụ y tế đã được cải thiện nhưng chưa tương xứng với yêu cầu và khả năng hiện có của hệ thống y tế nước ta hiện nay. Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm hiện nay theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ mới chỉ phát huy tác dụng trong một số đơn vị đã được nhà nước đầu tư trang bị tương đối đầy đủ, cán bộ y tế có chuyên môn cao, ở các vùng có điều kiện kinh tế xã hội phát triển, nhưng chưa thực sự phát huy được sức mạnh của đội ngũ khoảng 300 ngàn cán bộ y tế trong toàn quốc. Do vậy, cần phải ban hành cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính để tác động trực tiếp đến cán bộ y tế, phát huy tính tích cực, sáng tạo một cách tự giác của đội ngũ cán bộ y tế nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, tinh thần trách nhiệm, y đức của cán bộ y tế và đảm bảo thu nhập phải tỷ lệ thuận với năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc của mỗi người lao động trong điều kiện cụ thể của đơn vị. Kỹ thuật y học ngày càng phát triển, hiệu quả của công tác phòng bệnh, khám, chữa bệnh ngày càng cao, nhu cầu của người dân ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng dịch vụ làm cho chi phí y tế gia tăng rất nhanh, ngân sách có tăng nhưng mức tăng còn thấp nên chưa đáp ứng được các yêu cầu chi tiêu cơ bản của ngành, phân bổ vẫn chủ yếu dựa trên các yếu tố đầu vào, chưa tính đến kết quả đầu ra và chất lượng dịch vụ nên hiệu quả sử dụng chưa cao, chưa thực sự ưu tiên và cơ chế phân bổ ngân sách cho y tế dự phòng còn chưa rõ ràng nên việc triển khai và kết quả hoạt động phòng chống dịch bệnh vẫn còn một số hạn chế. Nên cần phải tiếp tục tăng đầu tư từ ngân sách cho y tế, thay đổi phương thức phân bổ ngân sách theo hướng tập trung ưu tiên cho các lĩnh vực khó có khả năng xã hội hóa, thuộc trách nhiệm của nhà nước như y tế dự phòng, an toàn thực phẩm, dân số-kế hoạch hóa gia đình... giảm dần ngân sách cho các lĩnh vực, đơn vị có khả năng thu, đồng thời thực hiện các chính sách để huy động các nguồn lực của xã hội cho y tế.
Chính sách viện phí còn chậm đổi mới, hiện mới đang thu một phần viên phí, chưa thực hiện tính đúng và thu đủ chi phí nên mức thu thấp, dẫn đến bao cấp tràn lan, người cần được bao cấp thì được bao cấp ít, người giàu- có khả năng chi trả viện phí thì lại được bao cấp nhiều hơn do sử dụng nhiều dịch vụ, không khuyến khích người bệnh điều trị ở tuyến cơ sở, hạn chế BHYT phát triển. Không đảm bảo cân đối thu, chi hoạt động thường xuyên của đơn vị, thiếu kinh phí để duy tu, bảo dưỡng tài sản, mua sắm các trang thiết bị thay thế...dẫn đến hạn chế quyền tự chủ, năng động, sáng tạo, kìm hãm năng suất, chất lượng dịch vụ y tế chưa cao. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải quan niệm đây là một loại dịch vụ nên phải được tính đúng, tính đủ các chi phí để thực hiện dịch vụ, có như vậy mới thúc đẩy các cơ sở y tế cung ứng các dịch vụ có chất lượng cho người dân, đồng thời phải rành mạch giữa hỗ trợ của nhà nước và đóng góp của nhân dân trong giá dịch vụ, giá dịch vụ phải phù hợp với khả năng chi trả của người dân, bảo đảm công bằng giữa các vùng, miền. Chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ y tế (trong đó có các loại phụ cấp) chưa phù hợp, tương xứng với thời gian học tập, công sức lao động và môi trường, điều kiện làm việc, nhất là ở khu vực miền núi, nông thôn dẫn đến tình trạng chuyển dịch cán bộ y tế (cán bộ chuyên môn khá, giỏi) từ miền núi, vùng khó khăn về đồng bằng, đô thị; từ khu vực công lập ra khu vực ngoài công lập. Nhiều bác sỹ, dược sỹ ra trường không công tác tại các cơ sở y tế mà ở lại làm các công việc khác tại các thành phố lớn, gây lãng phí xã hội... Do vậy, cần phải chi trả tiền lương và thu nhập hợp lý cho cán bộ y tế, bảo đảm tái sản xuất sức lao động, tiền lương phải được kết cấu dần trong giá dịch vụ để thúc đẩy năng suất, chất lượng dịch vụ của các cơ sở y tế, gắn tiền lương với chất lượng, hiệu quả công việc.
Nhiệm vụ triển khai thực hiện của Bộ Y tế
Theo Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 09/8/2012 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về Đề án “Đổimới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ công”. Quyết định số 21/QĐ-BCĐ ngày 16/3/2012 của Trưởng Ban chỉ đạo Nhà nước về đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ Y tế được giao 6 nhiệm vụ cụ thể như sau:
1) Xây dựng và trình Chính phủ ban hành cơ chế hoạt động và cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực y tế; xây dựng Đề án đổi mới cơ chế tính giá dịch vụ trong lĩnh vực y tế. Bộ Y tế đã xây dựng, trình và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám, bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập; đang dự thảo các Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định để khi Nghị định được ban hành có thể ký các Thông tư để thực hiện.
2) Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ cơ chế phân bổ ngân sách đối với các đơn vị sự nghiệp y tế chuyên ngành đặc thù như: các đơn vị y tế dự phòng, an toàn thực phẩm, dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản, truyền thông giao dục sức khỏe, giám định pháp y, pháp y tâm thần, giám định y khoa, kiểm nghiệm, kiểm dịch y tế quốc tế. Đang tiến hành khảo sát, nghiên cứu để xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ. Cơ chế phân bổ ngân sách cho các đơn vị y tế dự phòng (kể cả trạm y tế xã), Cơ chế phân bổ ngân sách theo đầu ra đối vớicác đơn vị làm nhiệm vụ: an toàn vệ sinh thực phẩm, dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản, truyền thông giáo dục sức khỏe, giám định pháp y, pháp y tâm thần, giám định y khoa, kiểm nghiệm, kiểm dịch y tế quốc tế.Dự kiến sẽ thí điểm phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ đối với 2 viện kiểm nghiệm, trung tâm kiểm định vắc xin và sinh phẩm y tế thuộc Bộ Y tế.
3) Xây dựng Đề án đặt hàng, giao nhiệm vụ đối với các cơ sở khám chữa bệnh phong, tâm thần.Đã xây dựng đề cương, tiến hành khảo sát tại một số bệnh viện phong, tâm thần, dự kiến thực hiện thí điểm phương thức này tại các bệnh viện phong, tâm thần thuộc Bộ Y tế để hoàn thiện và triển khai rộng.
4) Xây dựng, ban hành hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng trong lĩnh vực y tế. Đang triển khai thực hiện. Thời gian vừa qua mới ban hành tạm thời định mức kinh tế kỹ thuật của 447 dịch vụ phục vụ cho việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế tại Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT. Đang xây dựng để ban hành các quy trình, hướng dẫn về chuyên môn kỹ thuật để làm cơ sở kiểm tra, đánh giá chất lượng dịch vụ cũng như xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật để thực hiện dịch vụ.
5) Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ quy hoạch mạng lưới các bệnh viện, cơ sở khám, chữa bệnh. Đã hoàn chỉnh dự thảo Quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2020 định hướng đến năm 2030 (thay thế Quyết định 153/2006/QĐ-TTg), đang tiếp tục xin ý kiến chuyên gia và các đơn vị, địa phương để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt trong năm 2012.
6) Xây dựng, hoàn thiện và ban hành cơ chế kiểm định chất lượng trong lĩnh vực y tế: Đối với nhiệm vụ này Bộ Y tế mới triển khai bước đầu là giao nhiệm vụ cho các Vụ, Cục chuyên môn xây dựng.
Một số nội dung chính của Đề án và Nghị định 85/2012/NĐ-CP
Nội dung đổi mới cơ chế hoạt động
Phân loại đơn vị sự nghiệp y tế công lập thành 04 nhóm dựa trên cơ sở mức độ bảo đảm chi phí hoạt động từ các nguồn thu, cụ thể Nhóm 1: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm được toàn bộ kinh phí kinh phí hoạt động thường xuyên và kinh phí đầu tư phát triển. Nhóm 2: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm được toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên. Nhóm 3: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần kinh phí hoạt động thường xuyên. Nhóm 4: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp hoặc không có nguồn thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được giao do nhà nước bảo đảm toàn bộ.Việc phân loại được ổn định trong 03 năm, theo tiêu chí do liên bộ quy định. Mỗi nhóm sẽ có cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính phù hợp để phát huy tính tích cực của đội ngũ cán bộ y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ, hiệu quả hoạt động. Trong đó nhóm 1, dự kiến là các bệnh viện thuộc các trường Đại học Y dược, nơi có đội ngũ cán bộ y tế chuyên môn cao, các bệnh viện đã và đang được đầu tư tương đối hoàn chỉnh, ở những chuyên khoa có khả năng thu lớn như Răng Hàm Mặt, Tai Mũi Họng, Mắt, Phụ sản. Các bệnh viện này sẽ được tạo điều kiện để phát triển (nhiều nước bệnh viện của các Trường Đại học Y là bệnh viện lớn, chuyên khoa sâu, rất phát triển), được tự chủ về tổ chức, lao động, được quyết định giá dịch vụ trong khung giá do Liên bộ Y tế Tài chính quy định. Thí điểm có Hội đồng quản lý để quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của bệnh viện.
Quy định các đơn vị phải có Điều lệ tổ chức hoạt động do cơ quan chủ quản phê duyệt. Trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị (để hoạt động cho đúng chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống y tế theo quy hoạch phát triển ngành, địa phương).Hàng năm, các đơn vị phải xây dựng kế hoạch hoạt động chuyên môn, trong đó nêu rõ những hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ được giao (làm cơ sở để phân bổ ngân sách, đặt hàng…), những hoạt động “dịch vụ” để đáp ứng nhu cầu của xã hội, các hoạt động này đơn vị được thu theo giá tính đầy đủ chi phí.Thực hiện việc giao tài sản cho các đơn vị đủ điều kiện theo các quy địnhcủa Luật quản lý tài sản nhà nước để các đơn vị bảo toàn và phát triển tài sản được giao.Về việc tuyển dụng viên chức: giao cho đơn vị chủ động trong xây dựng kế hoạch tuyển dụng căn cứ vào văn bản hướng dẫn về cơ cấu, số lượng viên chức do cơ quan có thẩm quyền ban hành; chức năng, nhiệm vụ, kế hoạch hoạt động, quỹ tiền lương, tình hình thực tế để xây dựng và báo cáo cơ quan quản lý cấp trên về kế hoạch tuyển dụng hàng năm, trong đó ghi rõ số lượng cần thiết của từng tổ chức trực thuộc, yêu cầu về chất lượng, cơ cấu, thời gian sử dụng.Các đơn vị thuộc nhóm 3, nhóm 4 (nhóm ngân sách nhà nước bảo đảmmột phần hoặc toàn bộ) vì liên quan đến ngân sách nhà nước trả lương hoặc tính vào đơn giá đặt hàng nên kế hoạch phải do cơ quan quản lý cấp trên xem xét, quyết định để tránh tình trạng tuyển dụng quá nhiều, không phù hợp, ngân sách không bảo đảm được, mặt khác để yêu cầu các đơn vị phải tuyển đủ nhân lực cho các hoạt động, nhất là các bệnh viện, hiện nay chưa được tính tiền lương vào giá nên nhiều đơn vị không tuyển dụng để bảo đảm nhân lực phục vụ, trong đó có điều dưỡng chăm sóc toàn diện cho người bệnh, nhân viên hướng dẫn bệnh nhân và người nhà làm các thủ tục khám bệnh, chữa bệnhnên chất lượng phục vụ chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của người bệnh, còn để người bệnh phàn nàn. Còn việc tuyển dụng đã giao cho đơn vị. Trường hợp đơn vị không đủ khả năng tự tuyển dụng thì phải báo cáo cơ quan quản lý cấp trên (Sở Y tế) tổ chức việc tuyển dụng chung.
Cơ chế tài chính đối với chi đầu tư phát triển
Quy định nguồn vốn chi đầu tư phát triển đối với các đơn vị nhóm 1, bao gồm: Vốn tín dụng đầu tư của Ngân hàng phát triển Việt Nam, vốn vay các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) theo quyết định của cấp có thẩm quyền (nếu có), vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật, nhưng chỉ cho phép đơn vị được huy động để đầu tư cho các dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phương thức trả lãi với lãi suất thỏa thuận tối đa không quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tại thời điểm vay, từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật. Đối với các đơn vị thuộc nhóm 2, 3 và 4: Về cơ bản nhà nước bảo đảm vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị để các đơn vị có đủ điều kiện thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn thuộc phạm vi, chức năng của đơn vị được giao. Bộ Y tế sẽ quy định tiêu chuẩn về cơ sở hạ tầng, danh mục, số lượng trang thiết bị tối thiểu đối với các đơn vị sự nghiệp y tế phù hợp với quy mô và lĩnh vực chuyên môn y tế để làm căn cứ đầu tư (hiện nay đã có nhưng sẽ sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển về khoa học, kỹ thuật y học). Nguồn vốn đầu tư từ: vốn đầu tư phát triển tập trung, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)… theo quyết định của cấp có thẩm quyền, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của đơn vị và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, trường hợp vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ không đáp ứng được tiến độ của các dự án, công trình: đơn vị được vay vốn tín dụng đầu tư của Ngân hàng phát triển Việt Nam, hoặc vay vốn của các tổ chức tín dụng khác theo quy định và được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để bổ sung nguồn vốn đầu tư nhằm sớm đưa dự án, công trình vào sử dụng; được sử dụng ngân sách chi đầu tư phát triển được giao những năm sau để trả nợ gốc vay.Trường hợp đơn vị được cơ quan có thẩm quyền cho phép đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng trong khuôn viên hiện có theo hình thức Hợp đồng Xây dựng- Chuyển giao (BT) thì thực hiện theo quy định tại Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 và Nghị định số 24/2011/NĐ-CP ngày 05/4/2011 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Cơ chế tài chính đối với kinh phí chi thường xuyên
Các cơ sở khám chữa bệnh (ngoài phong, tâm thần) thuộc nhóm 3 & 4
Do hiện nay, khoảng 70% số thu viện phí và BHYT thanh toán cho các bệnh viện là tiền thuốc, vật tư y tế người bệnh đã trực tiếp sử dụng trong quá trình điều trị, khoản thu này được thực thanh, thực chi theo giá mua vào và thực tế người bệnh đã sử dụng, nên về bản chất, khoản này chỉ là khoản thu hộ, chi hộ người bệnh, không tính lãi; chỉ còn khoảng 30% số thu là các dịch vụ, gồm tiền khám bệnh, tiền ngày giường và các dịch vụ như chiếu, chụp, chẩn đoán hình ảnh, các xét nghiệm, các phẫu thuật, thủ thuật. Riêng các bệnh viện tuyến huyện, các bệnh viện ởvùng miền núi, khó khăn, số thu từ các dịch vụ còn thấp hơn nhiều, có nơi chỉ được 15 đến 20%. Nếu tính toàn bộ tiền lương vào giá dịch vụ trong khi vẫn thực thanh, thực chi tiền thuốc và vật tư trong quá trình điều trị thì sẽ phải phân bổ tiền lương cho các dịch vụ, do đó các bệnh viện càng cung cấp được ít dịch vụ (do trang bị chưa đảm bảo, trình độ chuyên môn còn thấp,..) thì chi phí của dịch vụ càng cao, dẫn đến có tình trạng giá của bệnh viện tuyến dưới lại cao hơn bệnh viện tuyến trên, miền núi, vùng khó khăn cao hơn thành thị, không khuyến khích người dân khám, chữa bệnh ngay trên địa bàn, trong khi vẫn phải có các bệnh viện tại vùng núi, vùng sâu, vùng xa để làm nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, khám, chữa bệnh cho nhân dân ngay tại địa bàn.
Vì vậy, ngân sách bảo đảm giai đoạn 2013-2018 theo lộ trình sau. Năm 2013 (chi phí duy tu, sửa chữa nhà cửa, cơ sở hạ tầng chưa được kết cấu vào giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh.Chi phí về tiền lương, các loại phụ cấp, các khoản đóng góp theo quy định theo quy định hiện hành (dùng 35% nguồn thu sau khi trừ thuốc, hóa chất, vật tư để thực hiện cải cách tiền lương). Năm 2014-2015 (chi phí duy tu, sửa chữa nhà cửa, cơ sở hạ tầng chưa được kết cấu vào giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh. 70% Quỹ tiền lương cơ bản đối với các bệnh viện tuyến tỉnh ở khu vực miền núi, Tây Nguyên và các bệnh viện quận thuộc Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 50% Quỹ tiền lương đối với các bệnh viện tuyến Trung ương và của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn lại). Năm 2016-2017 (chi phí duy tu, sửa chữa nhà cửa, cơ sở hạ tầng chưa được kết cấu vào giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh. 50% Quỹ tiền lương cơ bản đối với các bệnh viện tuyến quận, huyện). Từ năm 2018 trở đi, tỷ lệ tham gia BHYT dự kiến khoảng trên 80% nên mới có thể tính toàn bộ tiền lương trong giá dịch vụ. Như vậy phần ngân sách bảo đảm gồm chi phí sửa chữa nhà cửa và phần tiền lương còn lại chưa tính vào giá giao Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quyết định mức hỗ trợ cụ thể cho các đơn vị do trung ương quản lý; Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định mức hỗ trợ cụ thể cho các đơn vị thuộc địa phương quản lý.
Các đơn vị khám chữa bệnh và nuôi dưỡng người bệnh phong, tâm thần
Ngân sách bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động nên thực hiện theo cơ chế nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ.
Các đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng, các trạm y tế xã
Ngân sách nhà nước đảm bảo chi thường xuyên của đơn vị để thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao, bao gồm tiền lương cơ bản, gồm tiền lương theo ngạch, bậc, chức vụ, các loại phụ cấp theo chế độ, các khoản đóng góp theo chế độ quy định, được xác định trên cơ sở số biên chế được cấp có thẩm quyền giao. Chi phí để vận hành và bảo đảm hoạt động thường xuyên của đơn vị như: chi thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng, thông tin, tuyên truyền, liên lạc, chi hội nghị phí, công tác phí, thuê mướn, sửa chữa tài sản phục vụ công tác chuyên môn, duy tu bảo dưỡng cơ sở hạ tầng, mua sắm, thay thế công cụ, dụng cụ chuyên môn, chi cho công tác giám sát, kiểm tra, phòng chống bệnh dịch thường xuyên trên địa bàn do đơn vị được giao phụ trách. Khoản kinh phí này được tính và cấp theo từng nhiệm vụ được cơ quan có thẩm quyền giao (giao việc-giao kinh phí), hoặc có thể phân bổ theo tiêu chí biên chế, theo tiêu chí dân số trên địa bàn do đơn vị phụ trách, có tính đến điều kiện tự nhiên, tình hình dịch bệnh. Định mức phân bổ do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành đối với các đơn vị thuộc trung ương, do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành đối với các đơn vị thuộc địa phương.
Đối với các khoản thu phí, lệ phí y tế dự phòng, kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm, các hoạt động dịch vụ khác thì mức thu được tính theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp đủ chi phí, kể cả tiền lương, phụ cấp theo quy định. Các đơn vị được sử dụng toàn bộ số thu (sau khi đã nộp ngân sách theo tỷ lệ quy định) và dự toán ngân sách được giao để chi cho các hoạt động chuyên môn, chi phí cho việc thu phí, lệ phí và tổ chức các hoạt động dịch vụ, số còn lại (nếu có) được sử dụng để chi thu nhập tăng thêm và trích lập các quỹ.
Các đơn vị sự nghiệp y tế chuyên ngành đặc thù
Các đơn vị sự nghiệp y tế chuyên ngành đặc thù (an toàn thực phẩm, dân số kế hoạch hóa gia đình, kiểm nghiệm, kiểm định, giám định y khoa, tư pháp...): ngân sách đảm bảo kinh phí hoạt động đối với các nhiệm vụ nhà nước giao theo cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ.Để khuyến khích các đơn vị đang được xếp loại là đơn vị tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ chuyển sang loại hình tự đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên (nhóm 2), ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ một lần kinh phí vào năm đầu thực hiện chuyển đổi với mức tối đa bằng mức kinh phí chi thường xuyên giao tự chủ cho đơn vị năm trước liền kề năm chuyển đổi (như quy định đối với việc chuyển đổi các tổ chức sự nghiệp khoa học theo Nghị định 115/2008/NĐ-CP của Chính phủ).
Giá dịch vụ khám chữa bệnh
Theo quy định tại điều 88 của Luật khám bệnh, chữa bệnh và các quy định hiện hành của pháp luật, giá dịch vụ khám, chữa bệnh thực hiện nguyên tắc tính đúng, thu đủ chi phí phục vụ người bệnh, khoản nào nhà nước đã chi thì không thu, còn lại phải huy động sự đóng góp của người bệnh, thông qua BHYT và đóng góp trực tiếp của người dân, nhằm bảo đảm phần chi của nhà nước và đóng góp của dân phải bằng chi phí bệnh viện đã bỏ ra để thực hiện dịch vụ, để bệnh viện có kinh phí để phục vụ và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh. Do giá dịch vụ khám, chữa bệnh liên quan trực tiếp đến người dân khi bị đau ốm, liên quan đến lộ trình BHYT toàn dân và cân đối Quỹ BHYT nên việc thực hiện phải hết sức thận trọng, Bộ Y tế đã xây dựng lộ trình và được Chính phủ quyết định thực hiện.
Lộ trình thực hiện
Năm 2013
Giá các dịch vụ được tính trên cơ sở các chi phí trực tiếp: tiền thuốc, hoá chất, vật tư tiêu hao, vật tư thay thế để thực hiện dịch vụ (bao gồm cả chi phí bảo quản, hao hụt theo định mức được cơ quan có thẩm quyền quy định). Tiền điện, nước, nhiên liệu, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường trực tiếp để thực hiện dịch vụ. Duy tu, bảo dưỡng thiết bị, mua thay thế công cụ, dụng cụ trực tiếp sử dụng để thực hiện các dịch vụ. Chi phí chi trả phụ cấp thường trực, chi phí chi trả phụ cấp phẫu thuật, thủ thuật (nếu điều kiện 2013 thuận lợi thì dự kiến điều chỉnh 6 tháng cuối năm).
Giai đoạn 2014-2017
Giá dịch vụ được tính trên cơ sở các khoản chi phí như năm 2013. Chi phí về tiền lương năm 2014-2015 (chỉ tính 30% Quỹ tiền lương cơ bản đối với các bệnh viện tuyến tỉnh ở khu vực miền núi, Tây Nguyên và các bệnh viện quận thuộc Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 50% Quỹ tiền lương cơ bản đối với các bệnh viện tuyến Trung ương và của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn lại); năm 2016-2017 (tính 100% Quỹ tiền lương cơ bản đối với các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến trung ương và các bệnh viện quận thuộc Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 50% Quỹ tiền lương cơ bản đối với các bệnh viện tuyến huyện còn lại. Chi phí nhân công thuê ngoài (nếu có). Chi phí đặc thù tối đa không quá 50% chi phí tiền lương của dịch vụ để chi trả thù lao nhằm khuyến khích, thu hút các chuyên gia, thầy thuốc giỏi làm việc tại đơn vị, Khấu hao tài sản cố định là máy móc thiết bị trực tiếp sử dụng để thực hiện dịch vụ theo chế độ áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước; chi phí chi trả lãi tiền vay theo các hợp đồng vay vốn, huy động vốn để đầu tư, mua sắm trang thiết bị để thực hiện dịch vụ (nếu có): được tính và phân bổ vào chi phí của các dịch vụ sử dụng nguồn vốn này. Chi phí gián tiếp, các chi phí hợp pháp khác để vận hành, bảo đảm hoạt động bình thường của bệnh viện.
Giai đoạn từ năm 2018 trở đi
Giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh được tính đủ các chi phí để thực hiện dịch vụ. Các chi phí trực tiếp (chi phí về thuốc, hoá chất, vật tư tiêu hao, vật tư thay thế bao gồm cả chi phí bảo quản, hao hụt theo định mức được cơ quan có thẩm quyền quy định; Chi phí về điện, nước, nhiên liệu, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường; tiền lương, phụ cấp, các khoản đóng góp; chi phí thuê nhân công thuê ngoài; chi phí đặc thù tối đa không quá 50% chi phí tiền lương của dịch vụ; chi phí duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố định, mua sắm thay thế công cụ, dụng cụ trực tiếp sử dụng để thực hiện dịch vụ kỹ thuật; khấu hao tài sản cố định theo chế độ áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước; chi phí chi trả lãi tiền vay theo các hợp đồng vay vốn, huy động vốn để đầu tư, mua sắm trang thiết bị để thực hiện dịch vụ được tính và phân bổ vào chi phí của các dịch vụ sử dụng nguồn vốn này). Chi phí gián tiếp (chi phí của bộ phận gián tiếp, các chi phí hợp pháp khác để vận hành, bảo đảm hoạt động bình thường của bệnh viện; chi phí đào tạo, nghiên cứu khoa học để ứng dụng các kỹ thuật mới…).
Chi phí về tiền lương
Được tính theo nguyên tắc đối với những dịch vụ có đơn giá tiền lương trong đơn giá của dịch vụ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thì được tính theo đơn giá tiền lương đã được phê duyệt. Đối với những dịch vụ chưa được quy định đơn giá tiền lương trong đơn giá của dịch vụ thì chi phí về tiền lương được tính trên cơ sở hao phí lao động và mức tiền lương bình quân để thực hiện dịch vụ.
Thẩm quyền quy định giá dịch vụ y tế của các cơ sở khám chữa bệnh công lập
Bộ Y tế chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính quy định khung giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh trong trường hợp thanh toán theo dịch vụ; khung giá của từng loại bệnh, nhóm bệnh trong trường hợp thanh toán theo trường hợp bệnh, gồm 2 khung giá: Khung giá tính theo lộ trình nêu trên và Khung giá tính đầy đủ các yếu tố chi phí và có tích lũy. Quy định giá đối với các bệnh viện thuộc Bộ Y tế quản lý, các Bộ quy định giá đối với các bệnh viện do Bộ quản lý (hoặc áp dụng giá của bệnh viện cùng hạng tại địa phương), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá đối với các bệnh viện thuộc địa phương quản lý. Mức điều chỉnh giá dịch vụ y tế và thời điểm điều chỉnh giá dịch vụ y tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định cho phù hợp. Riêng các đơn vị thuộc nhóm 1, nhóm 2, cơ sở thực hiện xã hội hóa của đơn vị sự nghiệp y tế công lập được quyết định giá trong phạm vi khung giá tính đầy đủ các yếu tố chi phí do liên bộ ban hành.