I/ Tình hình sốt rét:
Tính đến ngày 30/6/2005 (số liệu 5 tháng) cả nước có 34.844 BNSR, 1 ca tử vong, và 5.141 KST sốt rét. So với cùng kỳ năm 2004:
- BNSR giảm 27,5% (34 844 / 48 035).
- Tử vong giảm 83,3% (1/6)
- Dịch sốt rét không ghi nhận (cùng kỳ không)
- KST sốt rét giảm 37,1% (5. 141/8. 171).
Phân bố theo các khu vực:
1- Miền Bắc:
Có 16. 434 BNSR, tử vong không, KST sốt rét 357. So với cùng kỳ 2004 BNSR giảm 31,36% (16. 434/20. 899), không để xảy ra tử vong (0/0), KST giảm 28,74% (357/501).
- Tất cả các tỉnh ở miền Bắc đều có số BNSR giảm so với cùng kỳ 2004, các tỉnh có số mắc cao là Lai Châu (1467), Điện Biên (1268), Phú Thọ (1531), Nam Định (1074), Thanh Hoá (1312) và Hà Tĩnh (1029). Tuy nhiên ở các tỉnh miền Bắc số được chẩn đoán là BNSR nhưng không có KST sốt rét quá lớn, chiếm 97,8% số BNSR.
- 23/29 tỉnh có số BNSR dưới 1000 trường hợp
- Các tỉnh có số KST sốt rét tuyệt đối tăng là Hà Giang ( 6/1), Tuyên Quang (4/3), Cao Bằng ( 38/13), Lạng Sơn (15/8). Nhưng các tỉnh này đều có số KST sốt rét tuyệt đối thấp. Đáng chú ý Cao Bằng tương đối cao so cùng kỳ 2004 và cùng kỳ 2003.
2- Miền Trung – Tây Nguyên:
Có 13. 244 BNSR, tử vong 01, KST sốt rét 3.958. So với cùng kỳ 2004 BNSR giảm 28,17% (13.224/18.412), tử vong giảm 02 ca (1/3), KST giảm 30,73% (3.958/5.714).
-12/15 tỉnh trong khu vực có số BNSR giảm, ngoại trừ Quảng Nam tăng 63,2% (2.509/1537), Thừa Thiên Huế tăng nhẹ 2,8% (257/250), Kon tum tăng nhẹ 1,3% (1.045/1.032). Xảy ra 01 trường hợp tử vong duy nhất cả nước tại Quảng Nam. Các tỉnh Tây Nguyên và Khánh hoà trước đây thường có số tử vong cao nhưng 6 tháng đầu năm 2005 không xảy ra trường hợp tử vong nào !important;
- Các tỉnh có số mắc cao trên 1000 trường hợp là: Quảng Nam (2509), Khánh Hoà (1.210), Gia Lai (1.706), Kon tum (1.045), Đắc Lắc (1.545), Đắc Nông (1.224) !important;
- Các tỉnh có số KST sốt rét tăng là Quảng Nam 191% (1431/492), Đà Nẵng 15,4% (15/13). Hầu hết các tỉnh khu vực miền Trung số KST tuyệt đối vẫn còn cao, nhất là Quảng Nam (1.431), Khánh Hoà (414), Bình Thuận (373) và Gia Lai (300). Số KST sốt rét tuyệt đối trong khu vực vẫn chiếm 77% số KST SR cả nước (6 tháng cuối năm trong công tác chỉ đạo về chuyên môn và quản lý nếu giảm được số KSTSR của khu vực xuống thì sẽ giảm được cơ bản mặt bằng sốt rét cả nước xuống 1 cách mạnh mẽ) !important;
3- Miền Nam:
Có 5.186 BNSR, tử vong không, KST sốt rét 893. So với cùng kỳ 2004 BNSR giảm 33,6% (5.186/8.724), tử vong giảm 100%, cùng kỳ 3 trường hợp (0/3), KST giảm 54,3% (893/1.956).
- Có 19/20 tỉnh có số BNSR giảm, Trà Vinh tăng nhẹ 8% (217/201).
- 2 tỉnh có số mắc cao trên 1000 trường hợp là Bình phước (1.235), Cà Mau (1.400)
- 2 tỉnh có số KSTSR tuyệt đối cao: Bình Phước (387), Bạc Liêu (157), nhưng đều giảm từ 11,3% (Bạc Liêu) đến 59,1% (Bình Phước) so cùng kỳ 2004 !important;
Nhận định tình hình sót rét hiện taị:
- Tình hình sốt rét cả nước ổn định, trừ Quảng Nam tăng sốt rét tại huyện Nam Trà Mi trong 3 tháng 3, 4 và 5. Hiện tại cũng đã ổn định trở lại, nhưng vẫn còn lưu hành ở mức cao so cùng kỳ 2004. Nguyên nhân tăng do chu kỳ cứ 3-5 năm thì sốt rét lại có biến động tại đây. Về giải pháp cần tiến hành một nghiên cứu toàn diện về chu kỳ dịch quay trở lại tại huyện Nam Trà Mi để đề xuất giải pháp can thiệp thích hợp.
- Cũng cần lưu ý một số tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang một vệt các tỉnh biên giới phía Bắc có dấu hiệu gia tăng về KSTSR đồng loạt, tuy chưa cao nhưng là những tín hiệu cảnh báo vì các tỉnh này đã nhiều năm có sốt rét ổn định và lưu hành ở mức độ rất thấp !important;
- Dự báo cả năm các mục tiêu, chỉ tiêu PCSR đều đạt và vượt so với yêu cầu đặt ra. Tình hình sốt rét cả nước vẫn tiếp tục ở xu thế ổn định, không có dịch sốt rét xảy ra, nhiều tỉnh sốt rét lưu hành ở mức thấp, số tử vong sẽ ở mức dưới 2 con số (điều mà từ trước tới nay chưa ai dám nghĩ đến). Nhưng cũng cần lưu ý huyện Nam Trà Mi vào các tháng 8-9-10,11, tình hình sốt rét vẫn có nguy cơ đe doạ xảy dịch.
II- Hoạt động PCSR của các địa phương:
- Nhìn chung các địa phương duy trì tốt và nghiêm túc các hoạt động PCSR thường qui. Chấp hành tốt chế độ báo cáo về Bộ Y tế. Chất lượng các hoạt động PCSR như phun hoá chất, điều trị, giám sát, quản lý ca bệnh có được nâng cao, minh chứng qua các chỉ số mắc, chết, KST, dịch sốt rét cả nước đều giảm mạnh so với mục tiêu đề ra. Qua theo dõi nhờ giám sát tốt nên đã phát hiện sớm tình hình sốt rét biến động tại huyện Nam Trà Mi và đã triển khai ngay, khẩn trương, các biện pháp PCSR tích cực do đó không để dịch sốt rét xảy ra và chỉ có một trường hợp tử vong. Nhưng cũng qua đây cho thấy y tế cơ sở tại huyện Nam Trà Mi vẫn còn rất yếu, nhất là y tế thôn, bản, sóc. Đó cũng là vấn đề đặt ra chung cho cả nước về vấn đề y tế cơ sở, muốn giám sát tốt, quản lý tốt sốt rét chỉ có thể phải tăng cường và củng cố đội ngũ y tế cơ sở (xã, thôn, bản, sóc).
- Các Viện sốt rét đã tăng cường các đoàn công tác đi các địa phương trọng điểm, kiểm tra và giúp đỡ các địa phương phòng chống sốt rét. Nhờ đó một số điểm nóng sốt rét đã được phát hiện sớm. Kiểm tra việc sử dụng thuốc, hoá chất, kinh phí vật tư PCSR đúng mục đích, đạt hiệu quả cao. Viện sốt rét Qui Nhơn đã triển khai và tổ chức tốt các hoạt động PCSR, giúp đỡ Quảng Nam khống chế sốt rét gia tăng tại huyện Nam Trà Mi, có báo cáo đầy đủ kịp thời về Bộ Y tế (ngay sau khi nhận được Công văn của Bộ Y tế , Viện sốt rét - KST - CT Qui Nhơn đã tổ chức các đoàn công tác liên tục đến Trà Mi giám sát tình hình thực tế và chỉ đạo trực tiếp các biện pháp chuyên môn- kỹ thuật khống chế sốt rét) !important;
- 6 tháng đầu năm cả nước điều trị được cho 291. 648 lượt người tại các vùng sốt rét lưu hành. Có nhận xét là số điều trị mới đạt 16,2% kế hoạch năm đề ra, giảm 4,9% so số điều trị của cùng kỳ 2004. Một số tỉnh có số điều trị chưa hợp lý: Kiên Giang có 108 BNSR mà điều trị tới 10. 095 lượt người, Cần Thơ không có BNSR, điều trị tới 14. 669 lượt người và còn một số tỉnh khác nữa. Lâm Đồng làm tốt công tác kết hợp quân dân y trong phòng chống sốt rét !important;
- Công tác báo cáo sốt rét hàng tháng về Bộ Y tế: Một số địa phương sau đây chưa làm tốt (báo cáo muộn sau 18 hàng tháng): Điện Biên 2 tháng, Vĩnh Phúc 4 tháng, Hà Tây 5 tháng, Hải Phòng 3 tháng, Thái Bình 4 tháng , Nghệ An 3 tháng, Quảng Nam 4 tháng, Bình Định 2 tháng, Khánh Hoà 4 tháng, Đắc Nông 3 tháng (1 tháng không gửi báo cáo), Bình Phước 3 tháng, Bà rịa Vũng Tàu 2 tháng, TP. Hồ Chí Minh 3 tháng, Bến Tre 2 tháng, An Giang 4 tháng, Sóc Trăng 3 tháng, Vĩnh Long 4 tháng.