Trong thực hành nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có nhiều “thành viên nhóm nghiên cứu” có thể được hàm thụ một cách bài bản về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học (Biomedical Ethics) hoặc quy trình thực thành lâm sàng tốt (Good Clinical practices). Song cũng không ít người nghiên cứu với khá nhiều công trình, đặc biệt là thử nghiệm lâm sàng trên thực địa cả trên lâm sàng bệnh viện chưa nắm hết toàn diện của các quy định và quy tắc về nghiên cứu y sinh học, nên đôi khi sẽ vấp phải vi phạm đạo đức trong nghiên cứu y sinh học hoặc sẽ không bao quát và thực hiện một đề cương nghiên cứu sẽ thiếu các thành tố quan trọng nhất này. Nhân đây, chúng tôi muốn chia sẻ một số điều đã thụ hưởng được từ một chương trình đào tạo rất bài bản được ap dụng rất nhiều, rất phổ biến trên thế giới và nay sắp được áp dụng tại Việt Nam.
Giới thiệu về chịu trách nhiệm tiến hành nghiên cứu
- Không có chỉ một cách tốt nhất để tiến hành nghiên cứu
- Các giá trị quan trọng để tiến hành nghiên cứu là: Trung thực, chính xác (độ đúng), hiệu quả và khách quan
- Quy tắc đi đường, trình bày tổng quan về việc xác định những cách thức khác nhau, các trách nhiệm nghiên cứu, từ các quy định chính thức tới các mã quy định y đức không chính thức và các công tác thực hành chung.
Các quy tắc đi đường
Việc trở thành nghiên cứu viên chính (chịu trách nhiệm) thì không giống như là việc trở thành một người lái chính
Hướng dẫn để chịu trách nhiệm tiến hành nghiên cứu không phải là một cái gì đó được tổ chức tốt. Một số hoạt động thực hành chính được xác định theo luật và chính sách quy định của cơ quan mà phải tuân thủ;
Có 4 loại quy tắc đi đường cơ bản khi chịu trách nhiệm tiến hành nghiên cứu:
- Quy định của bản thân nghề nghiệp
- Các quy định của Chính phủ
- Các chính sách thể chế
- Lương tâm mỗi cá nhân
Quy định của bản thân nghề nghiệp
Nghiên cứu phải trung thực: người ta có thể cho rằng nghiên cứu không cần các quy định cụ thể về tự quy định bởi vì theo định nghĩa thì nó là một hoạt động tự giám sát như hoạt động thường quy.
Các quy định của Chính phủ
Hoạt động của cộng đồng nghiên cứu là không đủ để hướng tới các mối quan tâm nên Chính phủ phải đưa ra các quy định;
Các quy định của Chính phủ thường bắt đầu từ Quốc hội;
Quốc hội xác định và giải quyết các vấn đề/vi phạm đạo đức của một nghiên cứu.
Các chính sách thể chế
Luật pháp quy định các chính sách để bao trùm được các khía cạnh khác nhau của các chương trình nghiên cứu nếu được nhận quỹ Liên bang;
Các chính sách phải có:
–  !important; Ủy ban xem xét (xét duyệt) về nghiên cứu trên đối tượng là con người và động vật;
–  !important; Quy trình điều tra và báo cáo những vi phạm đạo đức nghiên cứu và xung đột lợi ích;
–  !important; Thông qua (duyệt) và quản lý toàn bộ ngân sách nghiên cứu;
–  !important; Bảo đảm tuân thủ các quy định an toàn phòng xét nghiệm;
–  !important; Đào tạo cho các nghiên cứu viên.
Trách nhiệm cá nhân
Đặt ra các tiêu chuẩn tối thiểu về hành vi hơn là phấn đấu cho lý tưởng. Cần nhiều hơn các luật lệ/quy định đơn giản sau;
Các quy định sẽ không giải quyết được một số các xung đột cá nhân và các tình huống khó xử phát sinh trong nghiên cứu;
Các quy định cần được bổ sung bằng các phán xét tốt và ý thức mạnh mẽ của sự chính trực cá nhân.
VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU
Định nghĩa vi phạm đạo đức nghiên cứu
Bịa số liệu: Bịa ra số liệu/kết quả và ghi chép/báo cáo số liệu/kết quả đó;
Giả mạo: Sửa đổi vật liệu nghiên cứu, thiết bị, hoặc các quy trình hoặc thay đổi hay bỏ qua số liệu;
Đạo văn: Sao chép của người khác các ý tưởng, các quy trình, kết quả hoặc từ ngữ mà không có sự công nhận/trích dẫn phù hợp.
Vi phạm đạo đức nghiên cứu không bao gồm lỗi trung thực hoặc sự khác biệt về ý kiến
- Theo văn phòng Chính sách Công nghệ và Khoa học (OSTP): Nghiên cứu bao gồm tất cả các nghiên cứu minh chứng và ứng dụng cơ bản trong tất cả các lĩnh vực của khoa học, kỹ thuật và toán học;
- Hồ sơ nghiên cứu là các số liệu hoặc kết quả, đó là hiện thân của sự thật thu được từ nghiên cứu khoa học.
Quy định về vi phạm đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu viên bị phát hiện vi phạm các cam kết về vi phạm đạo đức nghiên cứu có thể không nhận được kinh phí tài trợ liên bang có hạn định hoặc vĩnh viễn;
Áp lực xuất bản có thể khiến một số người làm tắt, có hành vi chuyên môn có nguy cơ.
Báo cáo những cáo buộc
Trước khi cáo buộc, một NCV nên tìm kiếm hướng dẫn từ các nguồn đáng tin cậy;
Xem lại các chính sách thể chế về quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ kiểm soát;
Có thể báo cáo các vi phạm đạo đức một cách bí mật và mà không sợ bị trả thù;
Tham khảo ý kiến tư vấn pháp lý hoặc thanh tra để được hướng dẫn;
Cẩn thận ghi chép cáo buộc và hoàn cảnh.
Trách nhiệm của cơ quan nghiên cứu
Thông báo cho cơ quan hoặc các cơ quan liên bang thích hợp;
Chuyển tiếp một bản sao các bằng chứng, báo cáo điều tra, kiến nghị cho cán bộ của cơ quan xem xét, và phản hồi bằng văn bản đối với các khuyến nghị cho đối tượng;
Thông báo cho cơ quan về quyết định của cán bộ xem xét và về mọi hành động khắc phục đã thực hiện.
Các cơ quan tài trợ liên bang
Theo chính sách của OSTP, Quỹ Khoa học Quốc gia và Viện Sức khỏe Quốc gia là cơ quan tài trợ;
Dựa vào các tổ chức để phản hồi trước tiên đối với các cáo buộc về vi phạm đạo đức và thường chuyển cho các tổ chức mọi cáo buộc về vi phạm đạo đức đã gửi đến cho họ;
Nói chung phản ứng với các trường hợp vi phạm đạo đức thường chậm khi đối tượng chịu áp lực và là những người vận động hành lang.
Nhân viên kiểm soát và đối tượng cáo buộc
Các cơ quan/Tổ chức có các biện pháp bảo vệ thích hợp để các cá nhân có thể tố cáo các hành vi sai trái/vi phạm đạo đức một cách bí mật và không bị trả thù;
Được bảo vệ bởi các quy định của chính quyền tiểu bang và liên bang, Đạo luật khiếu nại những điều sai trái năm 1986.
THỰC HÀNH XUẤT BẢN VÀ QUYỀN TÁC GIẢ
Xuất bản là công khai
Công khai có thể là diễn thuyết từ một hộp xà phòng, phát tờ rơi, viết một bài báo, hoặc là tác giả một cuốn sách
Các khía cạnh xã hội của việc xuất bản gồm thực trạng, uy tín, lợi nhuận, và kiểm soát
Xác định 3 lỗi được biết đến nhiều nhất của truyền thông khoa học – bịa đặt, giả mạo, và đạo văn – được coi là vi phạm các tiêu chuẩn học thuật trong xuất bản và
Xem xét các tiêu chí của quyền tác giả, các nhiệm vụ của tác giả và những vấn đề liên quan
Sự lừa dối
Để cố gắng để đánh lừa một người nào đó là cố tình gây ra hoặc làm cho tin vào những điều sai lầm
Nói dối, cố ý đưa ra những tuyên bố sai là một hình thức của lừa dối
Bịa đặt, giả mạo, và đạo văn là lừa dối, là những gì làm cho chúng sai
Quyền tác giả
Người ta cho rằng những lừa dối về thực hành quyền tác giả là nguồn gốc lớn nhất của tham nhũng trong khoa học. Dưới đây là một số trong những cách người ta gian lận:
- Quyền tác giả do có thẩm quyền
- Quà tặng, lịch sự, hoặc tác giả danh dự
- Tác giả chính trị
- Tác giả ma
Tác giả do có thẩm quyền: Những biện hộ phổ biến nhất cho sự lừa dối này là chủ tịch, phụ trách, hay Giám đốc hoặc đã trả tiền cho công việc được mô tả trong bài báo, đã viết tài trợ công trình, đã cung cấp nguồn lực cho tổ chức hoặc một số cách khác đóng vai trò thiết yếu đối với công trình
Quà tặng, lịch sự, tác giả danh dự: Gọi nó là "lịch sự" làm cho sự lừa dối này nghe có vẻ kêu, tốt, lịch sự. Thường đằng sau sự lừa dối này là ý tưởng cho rằng sẽ là một điều tốt đẹp khi phân bổ các đồng tiền quốc gia về tác giả tới những đồng nghiệp "hữu ích” về mặt xã hội hoặc đặc biệt uy tín, thanh thế.
Quyền tác giả chính trị: Nhiều hoặc hầu hết các nghiên cứu viên đã nghe một đồng nghiệp nói rằng có vị Giáo sư nọ đã được đứng tên trong bài báo vì các lý do chính trị. Điều này có liên quan tới cả quyền tác giả do có thẩm quyền và quyền tác giả vì lịch sự. Ý tưởng phía sau nó là các đồng nghiệp quan trọng sẽ tức giận, tổn thương hoặc thất vọng nếu họ không được là đồng tác giả, ngay cả khi họ không làm gì;
Tác giả ma: liên quan đến việc tặng cho một người hoặc không liên quan hoặc chỉ liên quan rất ít đến dự án quyền tác giả của một bài báo để thay cho một khoản phí. Có nghĩa là, tác giả thật sự hoặc nhà tài trợ thực sự mua một tác giả, thường là một nhà nghiên cứu có tên tuổi, để nhờ uy tín và thẩm quyền của họ để công trình này.
Tranh chấp quyền tác giả
Tranh chấp về quyền tác giả có thể được giải quyết với sự giúp đỡ của thanh tra. Hai bên gặp nhau để đi đến một thỏa thuận chung. Nếu không thỏa thuận được thì có thể đưa vấn đề lên cấp cao hơn, chẳng hạn như văn phòng của Chủ nhiệm khoa. Nếu Chủ nhiệm khoa không thể giải quyết các vấn đề này thì thường có các ủy ban của trường/tổ chức để xử lý và giải quyết vấn đề;
Hòa giải tranh chấp quyền tác giả đề cập đến một tình huống trong đó hai bên gặp các thanh tra viên và cố gắng để đi đến một thỏa thuận chung;
Cách tiếp cận tốt nhất để giải quyết các vấn đề phát sinh trong giao quyền tác giả;
Ngay lập tức giải quyết tranh chấp quyền tác giả trong nhóm nghiên cứu (các tác giả và nghiên cứu viên chính) trước khi đưa vấn đề lên cấp cao hơn
Ủy ban Quốc tế các Biên tập viên Tạp chí Y học (ICMJE)
ICMJE xây dựng các tiêu chuẩn về quyền tác giả.
Các tiêu chí quyền tác giả là:
Đóng góp đáng kể cho quan niệm và thiết kế, hoặc thu thập số liệu, hoặc phân tích và phiên giải số liệu;
Soạn thảo các bài báo hoặc chỉnh sửa đáng kể cho các nội dung tri thức quan trọng;
Phê duyệt cuối cùng phiên bản sẽ được công bố. Tất cả những người đóng góp không đáp ứng các tiêu chí quyền tác giả sẽ được liệt kê trong phần lời cảm ơn.
Thứ tự của tác giả
Thứ tự đầu tiên hay cuối cùng của các tác giả phải là một quyết định chung của các đồng tác giả. Tác giả nên được chuẩn bị để giải thích thứ tự mà tác giả được liệt kê;
Các thành viên của nhóm nghiên cứu nên quyết định ai sẽ chịu trách nhiệm gửi đệ trình bài báo và liên lạc với biên tập viên.
Xuất bản thừa và tự đạo văn
Theo ICMJ, xuất bản thừa (hoặc xuất bản 2 lần) là công bố một bài báo lặp lại một cách đáng kể với một bài đã được xuất bản ở dạng in ấn hoặc dạng điện tử;
Những trường hợp một người sao chép công việc của chính họ và sau đó gian dối mạo nhận là mới, thì đôi khi được gọi là " tự đạo văn". Sử dụng cùng số liệu trong nhiều bài báo là lừa dối và có thể làm cho tập hợp các số liệu có thêm quá nhiều lực tích cực.
Sự phân đoạn
Với thứ tự tên các tác giả, câu hỏi rằng cái gì làm nên một chiến lược công bố phù hợp nên được thảo luận và tranh luận giữa nhóm nghiên cứu ngay từ giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu.
Đóng góp của tác giả nên được cân nhắc cẩn thận. Lời cảm ơn cũng nên được cân nhắc cẩn thận. Nên tư vấn về những người sẽ được nhận lời cảm ơn để tránh sự chứng thực giả tạo.
Cảm ơn viết như thế nào?
Ngay cả hành động cảm ơn một người nào đó cũng có thể làm dấy lên các vấn đề đạo đức. Một trong những sự lừa dối thú vị nhất là cảm ơn một người nào đó có thanh thế với hy vọng sẽ nhận được một hiệu ứng chủ quan hoặc hy vọng sẽ nhận được thanh danh được phản hồi trở lại. Có nghĩa là, một người vô danh có thể cảm ơn một ai đó với mục tiêu gây ấn tượng với một biên tập viên về những vẻ trang trọng của người vô danh đó.
Viết bài và xem xét các bản thảo và các ứng dụng của những người khác là những hoạt động quan trọng đối với một nghiên cứu viên và học giả;
Trích dẫn phù hợp & chịu trách nhiệm đối với công trình là những vấn đề quan trọng trong quyền tác giả, & thảo luận về vai trò của một bản thảo trong tương lai là quan trọng khi sinh viên, giảng viên, nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, và những người khác bắt đầu và tiếp tục một dự án;
Có thể nảy sinh hiểu lầm, nhưng luôn có sẵn cách để giúp giải quyết chúng;
Bảo đảm tính bảo mật của bản thảo được xem xét và nhận thức được những xung đột lợi ích tiềm tàng cũng là rất quan trọng trong quá trình xem xét chuyên môn.
XEM XÉT PHẢN BIỆN (VAI TRÒ VÀ QUÁ TRÌNH TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH)
Phản biện khoa học là gì?
Phản biện khoa học là những người khác trong cùng lĩnh vực đánh giá tính sáng tạo của công trình hoặc đánh giá việc thực hiện để duy trì hoặc nâng cao chất lượng của công việc hoặc việc thực hiện trong lĩnh vực đó
Nếu không có tư vấn nhận xét của người phản biện thì bài báo có thể bị từ chối (không được công bố) do chất lượng kém: thử nghiệm không có tính khoa học, bị lỗi logic, bỏ qua sự kiện, sai số, kết luận không đầy đủ, vân vân.
Việc công bố các bài báo cho phép xác nhận và thảo luận về những ý tưởng và khái niệm mới và cho phép các học giả có được uy tín cho công trình nghiên cứu của mình
Các học giả được cho là sẽ xem xét bản thảo để duy trì tính khách quan & nhận ra những sai số tiềm ẩn
Các vấn đề mà tác giả & người nhận xét phản biện phải đối mặt trong nỗ lực duy trì chất lượng của việc duyệt các đề cương và ấn phẩm đã được xuất bản
Vai trò của xem xét phản biện
Tất cả các cơ quan tài trợ chính đều yêu cầu phải có xem xét phản biện cho việc cấp các ứng dụng, và hầu hết các tạp chí khoa học yêu cầu phải có xem xét phản biện cho bản thảo gửi đăng. Sự phát triển nghề nghiệp thường dựa trên khả năng đăng được bài báo có chất lượng cao, ở các tạp chí có xem xét phản biện.
Quy trình xem xét phản biện
Sau khi bản thảo được gửi đến cho một tạp chí, một biên tập viên thường gửi nó cho các thành viên của ban cố vấn của tạp chí đó hoặc cho những chuyên gia không thuộc tạp chí nhưng rất có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực của bài báo để xem xét phản biện;
Người xem xét phản biện cũng nên nhận xét về tính độc đáo của công trình và liệu thiết kế nghiên cứu có đủ, phù hợp để hỗ trợ các kết luận hay không. Các tác giả thường KHÔNG biết danh tính của người nhận xét phản biện;
Xem xét phản biện cho cấp các ứng dụng tuân thủ theo một cách hơi khác;
Các nghiên cứu viên gửi cấp ứng dụng cho các cơ quan tài trợ, hầu hết các cơ quan này luôn có các ủy ban đánh giá chất lượng của các ứng dụng, thường xuyên có sự hỗ trợ từ chuyên gia xem xét phản biện từ bên ngoài. Các cơ quan tài trợ, thường có các ủy ban - đa số là các chuyên gia nhận xét phản biện từ bên ngoài, sẽ đánh giá chất lượng của ứng dụng và cho điểm ưu tiên;
Xem xét phản biện ban cấp của Viện sức khỏe quốc gia (NIH): Ứng dụng quá trình xem xét phản biện 2 lần:
- Lần 1: Do ủy ban tiến hành, thành viên của ủy ban này có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực ứng dụng
- Lần 2: Được một hội đồng tư vấn xem xét, hội đồng này gồm các nhà khoa học không liên quan với ủy ban và có mặt của đại diện cộng đồng, bao gồm cả những người thuộc nhóm bệnh nhân
- Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF): Sử dụng 2 tiêu chí chính (1) giá trị về mặt trí tuệ (2) tác động rộng lớn hơn
Các vấn đề khác mà người nhận xét phản biện thường xem xét bao gồm:
- Trình độ chuyên môn của các nhà khoa học đề xuất
- Mức độ sáng tạo và độc đáo của dự án
- Công trình sẽ đẩy mạnh các phát hiện, thúc đẩy giảng dạy, và mang lại lợi ích cho xã hội
- Các nhà khoa học đề xuất bảo vệ trước Hội đồng tài trợ NSF như thế nào
Các trách nhiệm của người xem xét phản biện
Phản hồi: Người xem xét phản biện có khả năng hoàn thành việc xem xét một cách kịp thời. Nếu không, đứng về mặt chuyên môn, nó có thể gây thiệt hại cho tác giả hoặc người nộp đơn. Nếu một người xem phản biện không thể đáp ứng theo thời hạn thì họ nên từ chối việc xem xét phản biện hoặc nên thông báo cho đối tác phù hợp để có thể điều chuyển hợp lý
Năng lực: Người xem xét phản biện chỉ nên chấp nhận sự phân công khi họ có đầy đủ năng lực chuyên môn để đưa ra những đánh giá có năng lực/đánh giá tốt. Nếu người xem xét phản biện không đủ giỏi thì nguy cơ mà họ có thể sẽ đề xuất chấp nhận một đệ trình còn thiếu sót hoặc từ chối một đệ trình xứng đáng sẽ tăng lên;
Tính công bằng: Nếu người xem xét phản biện có lợi ích cá nhân, lợi ích tài chính, hoặc các lợi ích khác mà có khả năng làm cho việc xem xét phản biện bị sai lệch, thiên vị thì họ nên nói với biên tập viên hoặc với cơ quan tài trợ những xung đột này và không nên nhận lời làm người xem xét phản biện;
Bảo mật: Tài liệu hoặc đối tượng (bài báo, đề cương, ứng dụng) được xem xét phản biện là đặc quyền, không nên chia sẻ chúng với bất cứ ai không tham gia quá trình xem xét phản biện. Nhìn chung, trước khi chia xẻ những thông tin của bản thảo hoặc thường quy xin tài trợ thì người xem xét phản biện cần có sự cho phép của biên tập viên hoặc của cơ quan tài trợ. Nếu người xem xét phản biện không chắc chắn về yêu cầu mức độ bảo mật thì họ nên liên lạc với một đơn vị thích hợp.
Các ngoại lệ về bảo mật: Khi đọc một bản thảo hoặc một ứng dụng, nếu người xem xét phản biện nhận thấy rằng nghiên cứu có thể không mang lại lợi ích gì hoặc đó là sự lãng phí nguồn lực thì việc dừng công trình nghiên cứu đó được cho là có đạo đức. Quyết định này cần được thông báo cho cá nhân yêu cầu xem xét phản biện
Phê bình có tính xây dựng: Người xem xét phản biện nên nhìn nhận khía cạnh tích cực của đối tượng (bài báo, đề tài, ứng dụng, vân vân) được xem xét, đánh giá các khía cạnh còn hạn chế một cách xây dựng và chỉ ra những điểm cần cải tiến
Trách nhiệm với khoa học: Trách nhiệm của các thành viên trong giới chuyên môn là tiến hành xem xét phản biện mặc dù họ thường không nhận được kinh phí để thực hiện công việc này. Người nhận xét phản biện có lợi là sẽ hiểu biết hơn về công việc của các đồng nghiệp, mà thường cái này có thể mang lại những hợp tác mới cho họ.
Những vấn đề có thể có trong hệ thống xem xét phản biện
Xem xét phản biện vẫn còn là chủ đề để chỉ trích như: Có thể có sai số, có thể không thể tiết lộ các cuộc xung đột tài chính hoặc các loại xung đột khác, có thể không thừa nhận việc thiếu chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu, và quá trình không đủ cho để cho phép xuất bản bài báo;
Quá trình xem xét phản biện hiện nay là không hoàn hảo. Một số người lập luận rằng xem xét phản biện kín làm cho việc xem xét phản biện thiếu trách nhiệm
- Khai thông Quy trình Xem xét phản biện: Thay vì hệ thống xem xét phản biện truyền thống, những sửa đổi đã được đưa vào áp dụng là:
- Xem xét phản biện được làm mù: Một số người đề nghị cần phải “làm mù" tác giả và tổ chức đang được xem xét đánh giá, loại bỏ sự thiên vị có thể có của người xem xét phản biện do họ biết công việc của người họ đang xem xét phản biện và cơ quan/tổ chức của tác giả
Xem xét phản biện mở:
Một số phê bình là "Một lựa chọn thay thế tốt cho quá trình xem xét phản biện hiện tại sẽ là các cửa sổ mạng (Blogs), có thể tải lên cửa sổ mạng các bài báo và chúng sẽ được xem xét phản biện bởi tất cả những ai quan tâm đến lĩnh vực này”
Người xem xét phản biện có thể từ chối tham gia hệ thống xem xét phản biện mở
Nói tóm lại:
Viết báo và xem xét phản biện các bản thảo và các ứng dụng của đồng nghiệp là những hoạt động quan trọng đối với từng nghiên cứu viên và giới trí thức. Trách nhiệm của người xem xét phản biện là phải công bằng và khách quan trong quá trình xem xét và giữ bí mật về các đối tượng được giao phó cho mình xem xét.
Bổn phận của người xem xét phản biện không chỉ là xem xét phản biện kịp thời, mà còn cho biên tập viên hoặc cơ quan thẩm quyền biết mọi cuộc xung đột trên thực tế hoặc xung đột tiềm ẩn và cam kết mà họ có thểthấy là có ảnh hưởng tiêu cực đến tính chính trực của quá trình xem xét phản biện.