Trong hai tuần đầu tháng 5 năm 2012, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn được giao nhiệm vụ phối hợp với các đoàn của Bộ Y tế điều tra nguyên nhân (côn trùng, ngoại ký sinh, ký sinh trùng đường ruột) tại khu vực có viêm dày sừng da bàn tay, bàn chân thuộc xã Ba Điền, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi để có cơ sở xác định nguyên nhân gây bệnh và đề xuất biện pháp giải quyết.
Kết quả điều tra
Kết quả điều tra khu hệ ngoại ký sinh (ve, mò, mạt, bọ chét) trước can thiệp
Tổng số hộ điều tra
Xã Ba Điền | Tổng số hộ điều tra | Số hộ có bệnh nhân | Số hộ không có bệnh nhân (chứng) |
Làng Rêu | 50 | 27 | 23 |
Gò Nghênh | 48 | 10 | 38 |
Hy Long | 33 | 7 | 26 |
Làng Tương | 33 | 0 | 33 |
Tổng cộng | 164 | 44 | 120 |
Ngoài nội dung điều tra đã thống nhất với Bộ Y tế, Viện còn chủ động điều tra 164 hộ (44 hộ có bệnh nhân và 120 hộ không có bệnh) với mục đích đánh giá tình hình véc tơ truyền bệnh trước khi can thiệp. Thu thập mẫu ngoại ký sinh trên chiếu nằm và môi trường (đất dưới sàn nhà, xung quanh nhà), vật nuôi (trâu/bò, chó/mèo, gà) và chuột bẫy gần nhà.
Số hộ thu thập được mẫu ngoại ký sinh trên chiếu nằm
Xã Ba Điền | Tổng số hộ điều tra | Số hộ trên chiếu có ngoại ký sinh | Số hộ bệnh trên chiếu có NKS | Số hộ chứng trên chiếu có NKS |
Làng Rêu | 50 | 29/50 (58%) | 18/27 (66,7%) | 11/23 (47,8%) |
Gò Nghênh | 48 | 18/48 (37,5%) | 7/10 (70%) | 11/38 (28,9%) |
Hy Long | 33 | 10/33 (30,3%) | 5/7 (71,4%) | 5/26 (19,23%) |
Làng Tương | 33 | 3/33 (9,1%) | 0 | 3/33 (9,1%) |
Tổng cộng | 164 | 60/164 (36,6%) | 30/44 (68,18%) | 30/120 (26%) |
Trong quá trình điều tra phát hiện rất nhiều mò, mạt và bọ chét trên chiếu nằm của người dân, đây là điều đáng lưu ý vì là sinh thái của loài mò trưởng thành sống trong đất ẩm nhưng tại xã Ba Điền mò trưởng thành và ấu trùng sống ngay trong chiếu ngủ của người dân, chứng tỏ loài mò này đã thích nghi với môi trường gần người.
Tổng số mẫu thu thập
1) Mò:
Tổng số mẫu mò thu thập 1728. Trong đó số mẫu thu thập trên chiếu: 151 mẫu (71 trưởng thành và 80 ấu trùng); nhà có bệnh: 113 (64 trưởng thành và 49 ấu trùng); nhà chứng: 38 (17 trưởng thành, 21 ấu trùng). Đáng chú ý số lượng mẫu thu được ở nhà có bệnh 113/151 (74,83%) cao hơn nhà chứng 38/151 (25,17%), ấu trùng (đốt máu) 80/151 (52,98%) cao hơn mò trưởng thành (không đốt máu) 71/151 (47,02%). Số mẫu thu thập trên môi trường: 17 mẫu (6 trưởng thành, 11 ấu trùng). Số mẫu thu thập trên vật nuôi (gà): 29 mẫu ấu trùng. Số mẫu thu thập trên 55 chuột bẫy được: 1531 mẫu ấu trùng mò, trong đó nhà có bệnh nhân: (851mẫu ấu trùng/18 chuột) và nhà chứng không có bệnh nhân (680 mẫu ấu trùng/37 chuột).
Thành phần loài mò: trong tổng số mẫu thu thập phát hiện 6 loài mò: Leptotrombidium deliense, Ascoschoengastia Laurentellalorius, Gahrliepia WachiaParapacifia, Gahrliepia Wachia lupella, Gahrliepia Gahrliepia , Eutrombicula hirsti. Trong 6 loài mò được xác định chỉ có loài mò đỏ (Leptotrombidium deliense) là trung gian truyền bệnh sốt mò chính ở Việt Nam, chiếm tỷ lệ 96 mẫu/1.651 mẫu ấu trùng (5,81%), còn 5 loại khác chưa xác định vai trò dịch tễ.
2) Mạt:
Tổng số mẫu thu thập 133. Số mẫu thu thập trên chiếu và môi trường: 48 mẫu (32 mẫu trưởng thành và 16 mẫu ấu trùng); trong đó nhà có bệnh nhân: 30 mẫu (18 trưởng thành và 12 ấu trùng); nhà chứng không có bệnh nhân: 18 mẫu (14 trưởng thành, 4 ấu trùng). Số mẫu thu trên vật nuôi (gà, chuột bạch): 12 mẫu trưởng thành. Số mẫu thu thập trên 55 chuột bẫy được: 73 mẫu, trong đó nhà có bệnh nhân: 48 mẫu (46 trưởng thành, 2 ấu trùng) và nhà chứng không có bệnh nhân 25 mẫu (24 trưởng thành và 1 ấu trùng).
Thành phần loài mạt: trong tổng số mẫu thu thập phát hiện 7 loài mạt, trong đó 3 loài định danh chưa xác định vai trò dịch tễ là Laelaps nuttalli, Laelaps sedlaceki, Laelaps echidninus, Laelaps traubi, Laelaps sanguisugus, Laelaps casalis và 1 loài chưa định danh đựơc tạm ghi tên dưới dạng Gamasoidae Sp được lưu giữ và định danh sau.
Vai trò truyền bệnh của mạt chưa được nghiên cứu nhiều, tuy nhiên từ năm 1949 Pavlopski đã khẳng định mạt là trung gian truyền các bệnh có tính chất ổ dịch thiên nhiên. Chúng là những ổ chứa mầm bệnh, đồng thời cũng là môi giới truyền mầm bệnh (vi khuẩn, vi rút qua lọc, rickettsia, spirochaeta, trùng roi, bào tử trùng gây bệnh...).
3) Bọ chét:
Tổng số mẫu bọ chét thu thập 107: số mẫu thu trên vật nuôi (chó): 66 mẫu/12 chó, số mẫu thu thập trên chuột bẫy: 37 mẫu/55 chuột, số mẫu thu thập trên môi trường 2 mẫu và chiếu 2 mẫu.
Thành phần loài bọ chét: xác định có 2 loài Xynopsylla cheopis sống ký sinh trên chuột là véc-tơ truyền bệnh dịch hạch, Ctenocephalides felis orientis là loài bọ chét sống trên chó.
4) Ve:
Tổng số mẫu thu thập 9. Không thu thập được mẫu nào trên chiếu, môi trường và chuột. Thu mẫu ve trên 60 trâu, bò tại Làng Rêu và Gò Nghênh chỉ bắt được 9 ve trên 2 con bò mới đưa từ trên núi về xác định là loài Boophilus microplus.
Số mẫu ve thu thập ít là do người dân ở đây thường xuyên 3-7 ngày 1 lần, dùng 1 loại bình xịt côn trùng có tên thương hiệu là Miehaling sản xuất tại Trung Quốc, xit đều lên trâu bò và đã sử dụng nhiều năm nay (từ 2009) nên không còn ve.
Kết quả điều tra muỗi truyền bệnh
Tổng số muỗi thu thập 332 cá thể trưởng thành (Anopheles: 98 và Culicinae: 234), không phát hiện véc tơ truyền bệnh chính.
Muỗi Anopheles có 6 loài: An. aconitus, An. crawfordi, An. jeyporiensis, An. Peditaeniatus, An. philippinensis, An. vagus là véc tơ phụ truyền bệnh sốt rét.
Muỗi Culicinae có 6 loài: Ae. poecillus, Ar. Subalbatus, Cx. Bitaeniorhynchus, Cx. Gelidus, Cx. Pseudovishnui, Cx. vishnui chưa xác định vai trò dịch tễ.
Kết quả xét nghiệm phân tìm ký sinh trùng đường ruột
Xét nghiệm phân tại chỗ bằng kỹ thuật Kato-katz cho 300 người (74 bệnh nhân viêm dày sừng da bàn tay, bàn chân và 226 người không có bệnh) ở xã Ba Điền.
Tỷ lệ nhiễm chung giun ký sinh đường ruột
Đối tượng | Số xét nghiệm | Số ca dương tính | Các loại giun phát hiện |
Giun đũa | Giun tóc | Giun móc |
Nhóm bệnh | 74 | 25 (33,78%) | 1 (1,35%) | 1 (1,35%) | 23 (31,08%) |
Nhóm không bệnh (đối chứng) | 226 | 66 (29,20%) | 3 (1,32%) | 2 (0,88%) | 62 (27,43%) |
Cộng | 300 | 91 (30,33%) | 4 (1,33%) | 3 (1,0%) | 85 (28,33%) |
Tỷ lệ nhiễm chung các bệnh giun truyền qua đất (đũa, tóc, móc) là 30,33%;trong đó tỷ lệ nhiễm giun ở nhóm có hội chứng viêm dày sừng da bàn tay, bàn chân (33,78%), không có sự khác biệt với nhóm chứng (29,20%).
Tỷ lệ nhiễm giun móc khá cao (28,33%), trong đó nhóm người bệnh tỷ lệ nhiễm giun móc là 31,08% và nhóm không bệnh tỷ lệ nhiễm giun móc là 27,43%, có thể do tỷ lệ hộ có hố xí thấp và do người dân ở đây có thói quen đi chân đất.
Tỷ lệ nhiễm giun ký sinh đường ruột tại các làng
Làng | Số xét nghiệm | Số dương tính | Giun đũa | Giun tóc | Giun móc |
Làng Rêu | 92 | 29 (31,52%) | 1 (1,08%) | 1 (1,08%) | 27 (29,34%) |
Gò Nghênh | 74 | 23 (31,08%) | 1 (1,35%) | 0 | 22 (29,73%) |
Hy Long | 72 | 19 (26,39%) | 1 (1,39%) | 1 (1,39%) | 17 (23,61%) |
Làng Tương | 62 | 20 (32,25%) | 1 (1,61%) | 1 (1,61%) | 19 (30,64%) |
Tỷ lệ nhiễm giun dao động từ 26,39 đến 32,25%, không có sự khác biệt giữa các làng.Tỷ lệ nhiễm giun ở nam (26,98%) không khác biệt có ý nghĩa với nữ (32,75%); tuy nhiên nhóm trên 15 tuổi (33,61%) cao hơn dưới 15 tuổi (17,74%) là do những năm gần đây, học sinh tiểu học của tỉnh Quảng Ngãi được tẩy giun định kỳ hàng năm theo chương trình của Tổ chức Y tế thé giới (WHO) hỗ trợ.
Nhận xét đánh giá về một số yếu tố nguy cơ dịch bệnh tại xã Ba Điền
Điều kiện môi trường vệ sinh thuận lợi cho bệnh dịch phát triển
Cấu trúc nhà cửa và môi trường vệ sinh ở xã Ba Điền thuận lợi cho bệnh tật phát sinh và phát triển. Hầu hết đồng bào ở nhà sàn hẹp tối, phên vách sơ sài, củi xếp lớp sát dưới gầm sàn tạo nơi trú ẩn cho các loài côn trùng truyền bệnh. Chuồng nuôi gia súc, gia cầm ngay sát cạnh nhà ở, phân vương vãi khắp nơi. Hố xí đào hố ở góc vườn, không có nhà tắm. Nước ăn uống sinh hoạt là nước mạch, nước suối, giếng khơi, nước mưa được dùng trực tiếp không lọc.
Xã Ba Điền có 4 làng thì 3 làng Rêu, Gò Nghênh, Hy Long cùng tựa lưng vào một ngọn núi lớn có điều kiện môi trường vệ sinh kém nhất và có 201/205 bệnh nhân viêm dày sừng da bàn tay, bàn chân. Trong khi làng Tương ngoài phạm vi ngọn núi này có điều kiện môi trường vệ sinh khá hơn, lại chỉ có 4/205 trường hợp mắc bệnh nên cần thiết phải xem xét mối liên quan phát triển bệnh với điều kiện môi trường.
Thành phần loài côn trùng và ngoại ký sinh truyền bệnh
Sinh cảnh xã Ba Điền là sinh cảnh của khu hệ ngoại ký sinh (ve, mò, mạt, bọ chét). Qua kết quảđiều tra côn trùng, qua điều tra phát hiện gần 2000 cá thể ve, mò mạt, bọ chét từ môi trường (giường. chiếu nằm của người dân) và các loại vật nuôi trong nhà (trâu, bò, chó, gà, chuột bạch); trong đó có loài mò đỏ Leptotrombidium deliense là loại truyền bệnh sốt mò chính ở Việt Nam, điều đáng lưu ý là sinh thái của loài mò trưởng thành sống trong đất ẩm nhưng tại Ba Điền mò trưởng thành và ấu trùng sống ngay trong chiếu ngủ của người dân, chứng tỏ loài mò này đã thích nghi với môi trường gần người. Đáng chú ý là 70% số hộ có bệnh viêm dày sừng da bàn tay, bàn chân phát hiện có mò trong chiếu ngủ, mạt (Laelapstidae), chó (có bọ chét Stenocephalides ở nhà bệnh nhân), chuột (có bọ chét Xynopsylla cheopis), bò (có ve Boophilus microplus) là những loài ngoại ký sinh đóng vai trò trung gian truyền một số bệnh truyền nhiễm như thủy đậu, sốt phát ban… nên không loại trừ có sự góp phần truyền bệnh của các loài ngoại ký sinh này dẫn đến nhiễm trùng cơ hội và tử vong.
Kết quả điều tra muỗi truyền bệnh (Anpheles) tuy không phát hiện được véc tơ truyền bệnh chính (An.minimus, An.dirus), nhưng sự hiện diện của các véc tơ phụ (An. aconitus, An. jeyporiensis, An. philippinensis, An. vagus) cũng góp phần lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét tại vùng này.
Tỷ lệ nhiễm các bệnh giun truyền qua đất
Mặc dù không có sự khác biệt giữa nhóm bệnh nhân viêm dày sừng da bàn tay, bàn chân với nhóm chưa mắc bệnh, nhưng tỷ lệ nhiễm các bệnh giun truyền qua đấtcao 30,33%; đặc biệt là giun móc (28,33%) là yếu tố góp phần vào tình trạng thiếu máu và suy dinh dưỡng của người dân tại xã Ba Điền.
Từ các kết quả điều tra trên cho thấy điều kiện vệ sinh môi trường và thành phần véc tơ truyền bệnh là những yếu tố thuận lợi phát sinh dịch bệnh tại địa phương, nhất là hội chứng viêm dày sừng da bàn tay, bàn chân có xu hướng gia tăng từ đầu tháng 4 là mùa hè, đồng thời cũng là mùa côn trùng truyền bệnh phát triển nên tạo nên những bệnh kết hợp trong thời điểm này làm bệnh nặng thêm và dẫn đến tử vong.
Để làm rõ thêm mối liên quan đến véc tơ truyền bệnh và ký sinh trùng gây bệnh, Viện sẽ tiếp tục tổ chức điều tra định kỳ khu hệ ngoại ký sinh và côn trùng truyền bệnh để có cơ sở đề xuất Bộ Y tế các biện pháp can thiệp phù hợp.