Ngày 14/6/2017. Malaria News-Theo bài viết của Kelly Austin, Phó Giáo sư về Xã hội học, Đại học Lehigh được đăng tải trên The Conversation,nạn phá rừng làm tăng các sự cố sốt rét vì nó tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho muỗi Anopheles phát triển và truyền bệnh,ví dụ như ở Kenya một nghiên cứu ở vùng cao nguyên cho thấy sống ở những vùng rừng cây bị đón hạ dẫn đến nguy cơ mắc bệnh sốt rét gia tăng.
Mặc dù là căn bệnh có thể phòng ngừa và chữa khỏi nhưng sốt rét vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến người dân ở 91 quốc gia, chỉ tính riêng năm 2015 đã có 212 triệu ca mắc bệnh và 430.000 trường hợp tử vong do sốt rét, trong đó vùng cận Saharanchâu Phi mang một gánh nặng lớn không cân đối với 90% số ca mắc sốt rét và 92% số ca tử vong do sốt rét.Sốt rét là một bệnh ký sinh trùng rất lâu đời được truyền sang người thông qua các vết đốt của muỗi cái Anopheles, không phải tất cả các loại muỗi Anopheles đều có cùng điều kiện nhưng nói chung nước đọng, nhiệt độ tăng và ánh sáng mặt trời là môi trường thuận lợi với hầu hết các loài gây sốt rét. Điều này giải thích tại sao, trong một thời gian dài số ca nhiễm liên quan đến điều kiện môi trường. Mặc dù mối liên kết nàynhưng có ít nghiên cứu được thực hiện về những gì làm cho một số khu vực thuận lợi hơn cho muỗi truyền bệnh sốt rét, nghiên cứu mới về 67 quốc gia lưu hành sốt rét và kém phát triển, là một nỗ lực để lấp vào lỗ hỏng nàycho thấy mối liên hệ giữa nạn phá rừng và tăng tỷ lệ sốt rét ở các nước đang phát triển.
Mối liên kết giữa nạn phá rừng với sốt rét(Linking forest loss to malaria)
Với mục đích xác định mối liên quan giữa mất rừng và tỷ lệ sốt rét ở các quốc gia, các nghiên cứu trước đây cho thấy có mối liên quan giữa mất rừng và quần thể muỗi hay tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét. Ví dụ một nghiên cứu ở khu vực cao nguyên Kenya cho thấy sống trong những rừng cây bị chặt phá dẫn đến nguy cơ mắc bệnh sốt rét gia tăng nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào cho thấy đây có phải là một xu hướng chung hay liệu những phát hiện này mang tính riêng biệt với một số nơi nhất định, chịu ảnh hưởng bởi các sắc thái của hệ sinh thái tại chỗ.Tác giả đã sử dụng dữ liệu về độ che phủ rừng của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) và tỷ lệ sốt rét của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ở cấp quốc gia, nghiên cứu cho thấy ngay cả khi kiểm soát các yếu tố khác đã được biết đến như cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và vĩ độ, các quốc gia bị mất rừng nhiều hơn có tỷ lệ sốt rét cao hơn.Ngoài việc đưa ra mối liên kết rộng lớn này, những phát hiện này khẳng định nghiên cứu cho thấy nạn phá rừng không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là do các hoạt động của con người gây ra, các áp lực của người dân vùng nông thôn như thu nhặt củi dùng trong nấu nướng, chuyên môn hóa trong nông nghiệp là chìa khóa dẫn tới mất rừng ở khu vực nông thôn tại các quốc gia lưu hành sốt rét. Nạn phá rừng làm tăng các sự cố sốt rét vì nó tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho muỗi Anopheles như các vũng nước bị phơi nhiễm với ánh nắng mặt trời làm tăng nhiệt độ, thúc đẩy các nơi đẻ lý tưởng hơn; tạo ra các rãnh và vũng nước làm cho các vũng nước có ít tính axitthuận lợi hơn cho sự phát triển của ấu trùng Anopheles; giảm sự hấp thụ của nướ-các khu rừng tăng trưởng nguyên sinh có xu hướng bị che phủ bởi các mảnh vụn dày trên mặt đấthấp thụ nước và thường làm cho các vũng nước đọng có tính axit; tạo ra "bát nước trên cây" (tree bowls) nơi gốc cây bị bỏ lại và tạo thành các vũng nước.
Giải pháp do lỗi của con người (Solutions lie with people)
Do con người gây ra sự mất mát của cây cối nên điều quan trọng cần nhấn mạnh là các hành động của con người khi tìm kiếm các giải phápcần phải theo đuổi những thay đổi trong thực hành nông nghiệp như để lại một số cây và tạo ra thêm bóng râm hoặc cấy trồng hỗn hợpcó thể thay thế nông nghiệp trồng rừng bao gồm các khu rừng bị đốn sạch và có thể giúp giảm nhẹ một số tác động có hại.Sốt rét vẫn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu và là một mối đe doạ đến sức khoẻ ở nhiều nước tại phía Nam bán cầu, đã có những cải thiện lớn trong phòng chống sốt rét, chẩn đoán và điều trị trong vài thập kỷ qua nhưng những thay đổi đối với môi trường tự nhiên làm tăng phạm vi và mức độ nghiêm trọng của nguy cơ. Điều đó nằm trong tầm tay của các chính phủ và người dân để đảm bảo rằng điều này không xảy ra bằng cách thực hiện hoặc đòi hỏi quản lý rừng bền vững hơn.