Từ 2-3/3/2006 tại TP. Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), Chương trình Quốc gia Phòng chống sốt rét - Bộ Y tế đã tổ chức Hội nghị tổng kết và Hội nghị khoa học về phòng chống sốt rét 5 năm (2001-2005) và định hướng PCSR (2006-2010); đến dự Hội nghị có đồng chí Trần Thị Trung Chiến - Ủy viên trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ Y tế; lãnh đạo một số Bộ, Ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố; lãnh đạo các viện sốt rét-ký sinh trùng côn trùng, Sở Y tế và Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP64 tỉnh/thành trong cả nước.
Ngày đầu (2/3/2006) Hội nghị tập trung đánh giá công tác PCSR 5 năm (2001-2005) và định hướng PCSR (2006-2010), qua báo cáo của các Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và Viện Sốt rét-KST-CT TP. Hồ Chí Minh; tình hình sốt rét ở nước ta trong 5 năm qua đã được cải thiện rõ rệt, năm 2005 so với 2000 tỷ lệ chết sốt rét/100.000 dân giảm 89,5%, mắc sốt rét/100.000 dân giảm 69%, không có dịch lớn ra, nhiều tỉnh đã phát triển được các yếu tố bền vững, giữ được tình hình sốt rét ổn định trong 5 năm liền.
|
PGS.TS. Lê Khánh Thuận-Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương tại Hội thảo tổng kết hoạt động 2005 và triển khai kế hoạch 2006. |
Nguyên nhân thành công và các bài học kinh nghiệm về kết quả đạt được trong mục tiêu PCSR các năm qua là do:
+ Chương trình PCSR là một chương trình y tế quốc gia ưu tiên, có sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp nhất là sự đầu tư đúng mức về vật tư, kinh phí thực hiện.
+ Có chiến lược PCSR phù hợp và sáng tạo, đặc biệt là ưu tiên thuốc chống sốt rét hiệu lực cao như CV8, Artemisinin và dẫn chất tại các vùng sốt rét lưu hành nặng tỷ lệ ký sinh trùng kháng thuốc cao và đảm bảo cấp thuốc sốt rét miễn phí cho dân các vùng sốt rét trong cả nước.
+ Thực hiện tốt công tác định kỳ đánh gia tình hình sốt rét và công tác nghiên cứu khoa học để đưa các mục tiêu và giải pháp kỹ thuật thích hợp cho từng vùng và từng giai đoạn.
+ Chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động y tế cơ sở (y tế xã/y tế thôn bản) và nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ chuyên khoa sốt rét.
+ Truyền thông giáo dục sức khỏe và xã hội hóa PCSR có hiệu quả, đặc biệt là nghiên cứu, thử nghiệm và sản xuất các vật liệu truyền thông PCSR phù hợp với các nhóm dân tộc thiểu số có nguy cơ mắc sốt rét cao.
+ Có sự hợp tác quốc tế và sự giúp đỡ tích cực của các tổ chức y tế quốc tế như Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Cộng đồng Châu Âu (EC), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ toàn cầu PCSR (GF), Ủy ban hợp tác Việt Nam-Hà Lan (MCNV)…
Mặc dù tình hình sốt rét đã có những thành công đáng kể, nhưng khu vực miền Trung-Tây Nguyên vẫn tiếp tục phải đối mặt với các thách thức và khó khăn do đặc điểm sốt rét phức tạp tại khu vực này so với miền Bắc và miền Nam. Một số vùng do nhiều nguyên nhân khác nhau (di dân tự do, giao lưu biên giới, khó khăn về áp dụng các biện pháp do nhận thức người dân còn thấp, tỷ lệ ngủ màn chưa cao, nguồn lực không ổn định…), màng lưới y tế cơ sở xã, thôn bản hiệu quả hoạt động chưa cao, tình trạng kinh tế của các cộng đồng dân tộc còn thấp, thời tiết lại luôn luôn biến động dẫn tới nguy cơ sốt rét gia tăng và bùng phát trở lại bất cứ lúc nào.
+ Vùng sốt rét lưu hành còn rộng, nhiều vùng sốt rét lưu hành nặng chủ yếu là khu vực đồng bào các dân tộc kinh tế khó khăn, thuộc trọng điểm kinh tế quốc phòng.
|
Toàn cảnh Hội thảo |
+ Giao lưu và di biến động dân số lớn do dân di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc vào định cư tại các vùng rừng núi Tây Nguyên ngoài sự kiểm soát của chính quyền và y tế địa phương; giao lưu giữa các vùng biên giới, đặc biệt là biên giới Việt-Lào, nơi có tình hình sốt rét phức tạp làm khó khăn cho công tác quản lý bệnh nhân và áp dụng các biện pháp PCSR.
+ Thời tiết khí hậu thay đổi (thiên tai, bão lụt và nắng hạn kéo dài), thuận lợi cho muỗi sốt rét và KSTSR có điều kiện phát triển mạnh.
+ Màng lưới y tế cơ sở chưa đủ mạnh để kiểm soát bệnh nhân sốt rét từ cơ sở, các điểm kính hiển vi xã hiệu quả hoạt động chưa cao.
+ Nhận thức và hành vi PCSR của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế nên chưa có ý thức tự bảo vệ cho bản thân và gia đình khi sống trong vùng sốt rét lưu hành.
+ Hệ thống giám sát và dự báo nguy cơ xảy dịch chưa hiệu quả, số liệu nhiều nơi chưa chú trọng vào khâu phát hiện chủ động nên độ chính xác chưa cao và chưa phát huy hiệu quả cho việc dự báo sớm tình hình.
 | |
Đồng chí Trần Thị Trung Chiến - Ủy viên trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ Y tế trao Huân chương độc lập hạng Nhì cho Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương | |
ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PCSR TỪ 2006 ĐẾN 2010
I. Mục tiêu:
1.1. Mục tiêu tổng quát:
1. Tiếp tục đẩy lùi SR và phát triển các yếu tố bền vững trong PCSR nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại và duy trỡ thành quả PCSR.
2. Phấn đấu làm cho bệnh SR không cũn là một vấn đề sức khỏe quan trọng trong cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế xó hội đến năm 2010
1.2. Mục tiêu cụ thể:
1. Giảm chết sốt rét 50% (0,045/100.000 DSC )so với năm 2005
2. Giảm mắc sốt rét 50% (1,37/1.000 DSC) so với năm 2005
3. Không để dịch xảy ra.
4. Xây dựng và phát triển các yếu tố bền vững (màng lưới, xã hội hóa PCSR
II. Các giải pháp chính:
2.1. Tổ chức chỉ đạo:
Tập trung đầu tư và chỉ đạo PCSR tại các vùng SRLH nặng, rất nặng, tỷ lệ mắc và chết sốt rét còn cao; cần quan tâm đặc biệt đối với các tỉnh Quảng Nam, Dăk Nông, Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum, Khánh Hòa nơi có số BNSR và TVSR cao hơn hẳn các tỉnh khác.
Xây dựng các định nghĩa và tiêu chuẩn về yếu tố bền vững.
2.2. Hoàn chỉnh màng lướiy tế thôn bản, y tế xã, quản lý y dược tư nhân:
Tập trung đào tạo kiến thức y tế cơ sở và chuyên ngành cho y tế thôn bản, y tế xã theo phương pháp đào tạo tích cực; xây dựng mô hình quản lý sốt rét tại cộng đồng.
Từng bước đưa màng lưới y dược tư nhân tham gia quản lý và điều trị BNSR.
2.3. Giám sát dịch tễ:
Xây dựng các điểm điều tra giám sát cố định tại các vùng sốt rét trọng điểm để dự báo tình hình sốt rét, phát triển và nâng cao vai trò hệ thống giám sát dịch tễ ở các tuyến để làm tốt công tác giám sát tình hình sốt rét ở địa phương thông qua việc phát triển phần mềm quản lý y tế (MMS), nối mạng, giám sát dịch tễ sốt rét theo quy định của Bộ Y tế.
2.4. Tăng cường các biện pháp chuyên môn kỹ thuật:
Tiếp tục chỉ đạo và giám sát các vùng trọng điểm sốt rét,đặc biệt tập trung PCSR tại các cộng đồng dân di cư từ phía Bắc vào .Tăng cường kiểm soát giao lưu, phát hiện quản lý và điều trị các trường hợp nhiễm bệnh tại các vùng biên giới. Nâng cao chất lượng kỹ thuật phun tẩm hoá chất, giám sát vectơ các vùng trọng điểm có nguy cơ gia tăng và xảy dịch. Nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục, lựa chọn kênh truyền thông phù hợp và có hiệu quả cho từng đối tượng nhằm gia tăng tỷ lệ ngủ màn.
2.5. Truyền thông giáo dục và ứng dụng công nghệ thông tin trong PCSR:
Tăng cường công tác TTGD-PCSR bằng các hình thức thích hợp nhằm nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của người dân để họ tham gia tích cực trong PCSR, đặc biệt ở các vùng SRLH nặng và rất nặng; lựa chọn kênh truyền thông phù hợp cho từng vùng, từng cộng đồng và dân tộc.
Đẩy mạnh trao đổi thông tin chuyên ngành, các hoạt động phòng chống sốt rét và hợp tác quốc tế trên mạng thông tin của Viện (Website).
2.6. Nghiên cứu ứng dụng:
Nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp PCSR cho các đối tượng di biến động (di dân tự do, di dân lao động, dân có tập quán ngủ rẫy theo mùa vụ...), tổng kết đưa vào ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, các mô hình phát triển các yếu tố bền vững trong PCSR, tăng cường kiểm tra, đánh giá và khen thưởng đối với các hoạt động PCSR.