Ngày 22/4 Sở Y tế và Trạm sốt rét tỉnh Quảng Ngãi và 28/4 Sở Y tế và Trung tâm phòng chống sốt rét tỉnh Đak Lak đã tổ chức hội nghị đánh giá hoạt động dự án Quỹ toàn cầu Phòng chống sốt rét (QTC-PCSR) năm 2005 và triển khai kế hoạch hoạt động năm 2006. Đến dự hội nghị có các đồng chí lãnh đạo Sở Y tế, Trung tâm phòng chống sốt rét tỉnh, văn phòng của UBND tỉnh, các ban ngành liên quan và các huyện tham gia Dự án.
Tại tỉnh Quảng Ngãi:  |
ThS. Phạm Đình Phương Phương-GĐ Sở y tế và BS. Trần Đình Qúy-Trưởng Trạm sốt rét tỉnh Quảng Ngãi tại Hội nghị triển khai DA QTCPCSR 2006. |
Báo cáo đánh giá kết quả hoạt động năm 2005, BS. Trần Đình Qúy-Phó Ban quản lý Dự án tập trung vào 5 mục tiêu kế hoạch của Dự án tại 5 huyện Ba Tơ, Sơn Hà, Sơn Tây, Tây Trà và Trà Bồng. Sau một năm thực hiện các huyện Dự án không có tử vong SR và không có dịch xảy ra, BNSR giảm 27, 29%, tỷ lệ KSTSR/lam máu giảm 10%. Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn và thuận lợi trong năm đầu thực hiện dự án:
Thuận lợi:
- Sự hỗ trợ kinh phí, trang thiết bị và phương tiện từ Dự án QTC PCSR đã giúp cho công tác PCSR được thuận lợi.
- Thường xuyên có sự chỉ đạo giám sát của BQLDA Trung ương và BQLDA Viện sốt rét-KST-CT Qui nhơn và BQLDA tỉnh quảng Ngãi.
- Có sự tham gia nhiệt tình của các huyện Dự án.
Khó khăn:
- Chưa có sự thống nhất trong công tác chuyên môn kỹ thuật của DAQTCPCSR để triển khai xuống địa phương, kinh phí chuyển về địa phương theo từng quí chưa kịp thời nên gặp khó khăn trong việc triển khai công tác, vật tư trang thiết bị giao nhận tại địa phương không đúng thời gian hoặc gần cuối năm mới cấp nên việc giải ngân găp nhiều khó khăn.
- Mạng lưới y tế thôn bản của 5 huyện dự án, nhân viên y tế xã và Đội vệ sinh phòng dịch huyện yếu về chuyên môn.
- Ban chỉ đạo dự án của các huyện chưa có sự thống nhất trong chỉ đạo hoạt động, 1 số huyện cần phải củng cố lại .
Năm thứ 2 hoạt động dự án tiếp tục tập trung thực hiện có chấtlượng và hiệu quả 5 mục tiêu nhất là công tác giám sát tuyến huyện, xã và tăng cường cán bộ của Trung tâm xuống các xã thực hiện CBM của huyện Sơn Tây.
Phát biểu tham luận đồng chí Phó Chủ tịch huyện và Giám đốc TTYT Sơn Tây cho rằng kết quả CBM nhìn chung là tốt, nhưng tỷ lệ dân ngủ màn còn thấp mới chỉ đạt 40% và vân động dân tự mua màn còn khó khăn do điều kiện kinh tế của người dân hạn hẹp.
Tại tỉnh Đak Lak:
BS. Trịnh Đình Tuấn-Giám đốc TTPCSR, Phó ban QLDA đã trình bày kết quả hoạt động năm 2005.
Tỉnh Đak Lak có 10/13 huyện được hưởng dự án QTC, dân số trong vùng dự án là 1.075.048 người. Kết quả sau 1 năm thực hiện dự án các chỉ số giảm đáng kể, nếu so sánh năm 2005/2001, số TVSR giảm 77,78%, số mắc SR giảm 78,82%, SRAT giảm 86,24%, tỷ lệ chết SR/100.000 dân giảm 91,67% và tỷ lệ mắc SR/1000 dân giảm 82,24%
Hiệu quả bước đầu của dự án trong công tác PCSR:
- Năng lực chuyên môn về các lĩnh vực chẩn đoán/điều trị sốt rét, phòng chống vector của cán bộ tuyến cơ sở được nâng cao rõ rệt thông qua các lớp tập huấn/đào tạo; chất lượng công tác chuyên môn được cải thiện hơn, đặc biệt là kỹ thuật phun tẩm hóa chất.
- Hỗ trợ kinh phí giám sát dịch tễ của Dự án ở các tuyến đã giúp cho việc phát hiện và xử lý sớm các diễn biến bất thường về tình hình SR tại địa phương. Vật tư, trang thiết bị, phương tiện do dự án cấp đã tạo điều kiện thuận lới cho tuyến cơ sở hoạt động PCSR.
|
BS. Nguyễn Phi Tiến-Giám đốc Sở Y tế, Trưởng ban QLDA tỉnh Đăk Lăk khai mạc Hội nghị |
- Hoạt động CBM tại Krông Bông bước đầu thay đổi được phương pháp lập kế hoạch PCSR của cán bộ y tế sát với tình hình thực tế. Việc thành lập nhóm Chăm sóc y tế thôn bản tại những nơi chưa có y tế thôn bản ở 2 huyện Madrăk và Eahleo đã phần nào giảm ghánh nặng cho y tế xã
- Hoạt động giám sát PCSR ở các tuyến được cải thiện, đào tạo và đào tạo lại vế GSDT, chẩn đoán-điều trị, tập huấn phun- tẩm, mở lớp tập huấn xét nghịêm viên KSTSR cho xã. Ngoài ra được Viện SR-KST-CT Qui Nhơn hỗ trợ tích cực về kiến thức chuyên môn và kỹ năng truyền thông PCSR tại cơ sở ngày càng tốt hơn.
Khó khăn và tồn tại:
- Công tác lập kế hoạch cho từng hoạt động chưa có sự thống nhất giữa Ban quản lý Dự án tỉnh và Trung ương, kế hoạch ngân sách thay đổi nhiều lần nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện, hoạt động quản lý dự án tại tuyến huyện còn hạn chế
- Chỉ số quản lý phụ nữ có thai và uống thuốc phòng khó thực hiện vì >80% là P.falciparum, kỹ năng truyền thông PCSR, giám sát DTSR và quản lý BNSR tại cộng đồng còn hạn chế; ngành y tế khó kiểm soát và quản lý được tình hình di biến động dân cư.
Kế hoạch hoạt động 5 mục tiêu của dự án năm 2006, Đăk Lăk tập trung chủ yếu vào các hoạt động và phân bổ kinh phí cho từng huyện theo kế hoạch đã được duyệt.
TS.Trương Văn Có thay mặt BQLDA của Viện báo cáo kết quả hoạt động của dự án QTC năm 2005 khu vực miền Trung-Tây Nguyên và trình bày kế hoạch hoạt động của Viện năm 2006 ở cả hai Hội nghị của Quảng Ngãi và Đăk Lăk.