Ngày 18/3/2007 tại TP. Quy Nhơn, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã tổ chức “Hội nghị đánh giá kết quả phòng chống sốt rét-ký sinh trùng năm 2007 và định hướng hoạt động năm 2008”; đến dự Hội nghị có đại diện Bộ Y tế, Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Ban Quân y phía Nam và một số Bệnh viện Quân y, Trường Đại học Y khoa Hà Nội và một số Trường trung học y tế, Lãnh đạo Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, Lãnh đạo Sở Y tế và Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP 15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên, Tạp chí y học thực hành, Báo VNTTX và các cơ quan thông tin đại chúng thuộc tỉnh Bình Định.
Hội nghị đã nghe TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng báo cáo đánh giá tình hình phòng chống sốt rét & giun sán năm 2007 và kế hoạch hoạt động 2008, ThS. Lê Ngọc Linh-Phó Viện trưởng báo cáo về Thông tư 147/TT-BYT-BTC liên Bộ Y tế và Bộ Tài chính về những thay đổi chế độ thực hiện các mục tiêu chương trình y tế quốc gia; phát biểu của PGS.TS. Vũ Sinh Nam-Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng & Môi trường-Bộ Y tế, BS. Trần Công Đại-Chuyên gia WHO tại Việt Nam cùng nhiều ý kiến thảo luận của các đại biểu tham dự Hội nghị.
Là khu vực trọng điểm sốt rét của cả nước, từ năm 2000 đến nay mặc dù đã đạt được nhiều kết quả thực hiện các mục tiêu giảm mắc, giảm chết và không để dịch sốt rét xảy ra;nhưng miền Trung-Tây Nguyên vẫn phải đối mặt với những khó khăn thách thức lớn trong phòng chống sốt rét cho các nhóm dân di biến động (dân di cư tự do, đi rừng ngủ rẫy, giao lưu biên giới), hiệu quả các biện pháp tác động chưa cao, ý thức tự bảo vệ của người dân trong các vùng sốt rét lưu hành còn thấp, nguồn lực không ổn định, hoạt động của màng lưới y tế cơ sở huyện/xã/thôn bản còn hạn chế, đời sống kinh tế củacộng đồng dân tộc thiểu số chưa được cải thiện, hàng năm thời tiết luôn biến động bất thường dẫn đến nguy cơ dịch sốt rét có thể bùng phát trở lại bất cứ lúc nào.
 |
TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng báo cáo đánh giá tình hình phòng chống sốt rét & giun sán năm 2007 và kế hoạch hoạt động 2008 |
Để đối phó với các khó khăn thách thức trên, năm 2007 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã tập trung chỉ đạo các địa phương trong khu vực khống chếnguy cơ sốt rét tại các vùng trọng điểm, tăng cường nghiên cứu các biện pháp phòng chống sốt rét khả thi cho các nhóm dân di biến động, nâng cao năng lực quản lý bệnh nhân của màng lưới y tế cơ sở và ý thức tự phòng chống sốt rét của cộng đồng. Những nỗ lực của Viện và ngành y tế các tỉnh trong khu vực đã khống chế được dịch bệnh theo mục tiêu đề ra và góp phần tích cực trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Đánh giá về tình hình sốt rét:
Năm 2007 được xem như là đỉnh điểm của sự giảm thấp bệnh nhân sốt rét và tử vong sốt rét trong khu vực so với các năm trước đây, theo số liệu thống kê 12 tháng năm 2007 so với cùng kỳ năm 2006:
Bệnh nhân sốt rét (BNSR): Toàn khu vực (2007/2006) là 25.893/38.351 ca giảm 32,48%; trong đó miền Trung 15.242/18.738 giảm 18,66%, Tây Nguyên 10.651/19.613 giảm 45,69% so với cùng kỳ năm trước; 13/15 tỉnh giảm mắc trên 10%, chỉ có 2/15 tỉnh giảm chậm là Quảng Bình (- 3,31%) và Quảng Trị (- 5%).
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR): Tỷ lệ KSTSR toàn khu vực giảm 39,45%, trong đó miền Trung giảm 20,39%, Tây Nguyên giảm 57,61% so với cùng kỳ năm trước; 13/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR giảm: Thừa Thiên-Huế (- 39,48%); TP Đà Nẵng (-25,81%); Quảng Nam (- 33,61%); Quảng Ngãi (- 61,07%), Bình Định (- 44,91%); Khánh Hòa (- 2,37%); Ninh Thuận (- 14,79%); Bình Thuận (- 42,92%); Gia Lai (-59,62%); Kon Tum (- 65,79%); Đak Lak (- 62,31%); Đak nông (- 25,77%); 2/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR tăng là Quảng Bình (+ 25,03%); Quảng Trị (+ 21,80%) và 1/15 tỉnh giảm chậm là Khánh Hòa (- 2,37%).
Sốt rét ác tính (SRAT): Số SRAT toàn khu vực giảm 49,48% so với cùng kỳ năm 2006 (97/192); trong đó miền Trung giảm 35,42% và Tây Nguyên giảm 63,54%; các tỉnh có SRAT tăng là Quảng Nam, Ninh Thuận hoặc không giảm là Quảng Bình và Đăk Nông.
Tử vong sốt rét (TVSR): Toàn khu vực 13/25 ca giảm 48%, trong đó miền Trung 6/9 ca giảm 33,33%, Tây Nguyên 7/16 ca giảm 56,25% so với cùng kỳ năm trước. Có 1 tỉnh TVSR tăng là Ninh Thuận (2/1 ca) và 2 tỉnh không giảm là Quảng Bình (1 ca), Đăk nông (2 ca).
Đối tượng TVSR: Năm 2007, có 13 trường hợp tập trung cao ở các đối tượng nam giới (69,23%); trên 15 tuổi (69,23%); đồng bào dân tộc thiểu số (69,23%); đi rừng/ngủ rẫy (76,92%), dân di cư tự do (2 trường hợp). Các chỉ số này chỉ có sự khác biệt duy nhất so với 2006 là số chết ở người thiểu số cao hơn người Kinh.Về thời gian khởi bệnh và mức độ biến chứng:Năm 2007 toàn bộ TVSR đều tại bệnh viện tuyến tỉnh, thời gian trước nhập viện trên 3 ngày (46,15%) cải thiện hơn năm 2006, tử vong trước 24 giờ (61,54%) cao hơn năm 2006, biến chứng đa phủ tạng (46,15%) thấp hơn năm 2006.
Dịch sốt rét:không xảy ra.
Kết quả trên cho thấy mặc dù tình hình sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên có xu hướng giảm thấp nhưng chưa có tính bền vững, số mắc sốt rét vẫn chiếm gần 50% và số tử vong sốt rét trên 80% so với toàn quốc, dịch sốt rét vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Các nguyên nhân dẫn đến tử vong sốt rét so với năm trước chưa được cải thiện đáng kể và nguy cơ sốt rét tại khu vực còn cao do nguồn bệnh (KSTSR) trong dân tập trung cao tại các vùng có sự lan truyền mạnh với sự hiện diện và phục hồi các vectơ truyền bệnh chính (An.minimus, An.dirus). Tỷ lệ P.falciparum vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối trong cơ cấu KSTSR (75-85%), các chỉ số liên quan đến tính mạng bệnh nhân (SRAT, TVSR) chưa có sự cải thiện, công tác kiểm soát bệnh nhân ở tuyến y tế cơ sở (xã/thôn bản) chưa chặt chẽ và mới ở mức cấp thuốc thay vì theo dõi điều trị bệnh nhân. Số mắc sốt rét tập trung ở tập trung chủ yếu ở nhóm dân di cư tự do, đi rừng/ngủ rẫy, giao lưu biên giới (Việt nam-Lào, Việt Nam-Cambodia) hoặc làm ăn theo mùa vụ trong vùng sốt rét lưu hành ngoài khả năng kiểm soát của ngành y tế. Khu vực miền Trung-Tây Nguyên là vùng trọng điểm về kinh tếvà quốc phòng, kéo theo sự gia tăng dân vào vùng sốt rét có kế hoạch (các công trình Nhà nước), không có kế hoạch (di dân tự do) và mạng lưới bảo vệ an ninh chính trị rải khắp các địa bàn quá khả năng kiểm soát của hệ thống y tế. Khí hậu, thời tiết diễn biến thất thường, hầu hết các cơn bão hàng năm đều đổ bộ vào khu vực miền Trung dẫn đến tình trạng mưa lụt kéo dài chi phối các yếu tố ảnh hưởng tới sự lan truyền bệnh (muỗi sốt rét và KSTSR có điều kiện phát triển mạnh). Đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sốt rét lưu hành nặng (vùng sâu/vùng xa) chưa có ý thức tự bảo vệ PCSR cho bản thân và gia đình, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, còn nhiều hủ tục lạc hậu (ma chay, cúng bái).
Kết quả các hoạt động PCSR:
 |
BS. Trần Công Đại-Chuyên gia WHO tại Việt Nam đưa ý kiến thảo luận tại Hội nghị. |
Tổ chức chỉ đạo: Ngay từ đầu năm Viện đã gửi công văn cảnh báo nguy cơ sốt rét và yêu cầu các tỉnh trong khu vực tăng cường giám sát sốt rétcác vùng trọng điểm; thành lập Ban chỉ đạo phòng chống dịch bệnh và thiên tai, cử nhiều đoàn chỉ đạo, giám sát và hỗ trợ thực hiện công tác phòng chống sốt rét tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đak Lak, Đak Nông, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận. Tổ chức Hội nghị phòng chống sốt rét cho các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên 6 tháng đầu năm 2007 và Hội thảo chẩn đoán, điều trị bệnh sốt rét vào Quý III/2007 để nâng cao chất lượng các biện pháp thực hiện cho tất cả các tuyến. Các tỉnh trong khu vực cũng triển khai kế hoạch phòng chống sốt rét kịp thời, đặc biệt là các vùng có nguy cơ gia tăng sốt rét; chú trọng nâng cao chất lượng kỹ thuật các biện pháp PCSR và tích cực khống chế các vùng sốt rét có biến động (dân di cư tự do định cư, dân đi rừng và ngủ rẫy, dân giao lưu biên giới). Cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp ở địa phương vẫn duy trì sự quan tâm chỉ đạo đúng mức ở các vùng sốt rét trọng điểm, màng lưới y tế cơ sở (huyện, xã, thôn, bản, điểm kính hiển vi) đã có nhiều nỗ lực trong kiểm soát tình hình sốt rét, tuy nhiên công tác phát hiện, điều trị sớm và quản lý bệnh nhân sốt rét tại cơ sở còn nhiều hạn chế.
Giám sát dịch tễ sốt rét và phòng chống dịch: Để giúp cho việc đánh giá đúng tình hình sốt rét và đề xuất kịp thời các biện pháp khống chế sốt rét gia tăng; Viện đã hoàn chỉnh phần mềm quản lý sốt rét (MMS), triển khai tập huấn và ứng dụng tại 15 tỉnh của khu vực, bước đầu cho thấy phần mềm hoạt động hiệu quả, dễ sử dụng và phân tích số liệu chính xác, nhất là biểu đồ dự báo dịch. Trung tâm PCSR/YTDP các tỉnh đã chú trọng nâng cao chất lượng các biện pháp phun hóa chất, tẩm màn, cấp thuốc tự điều trị, truyền thông giáo dục; công tác giám sát dịch tễ vùng trọng điểm và chế độ giao ban hàng tháng giữa xã, huyện, tỉnh được duy trì thường xuyên, nhờ đó thông tin được phân tích, kịp thời khống chế gia tăng sốt rét và nguy cơ xảy dịch; gửi báo cáo sốt rét đều hơn so với năm trước nên Viện đã kịp thời báo cáo cho Bộ Y tế vàphản hồi cho các địa phương.
Phòng chống vectơ và điều trị sốt rét:Việc cung cấp hoá chất phun tẩm kịp thời đảm bảo triển khai đúng kế hoạch, tuy nhiên công tác báo cáo đánh giá về chất lượng phun tẩm và xử lý bao bì hóa chất chưa được chú trọng. Thuốc sốt rét được cung ứng kịp thời nhưng công tác quản lý sử dụng và thanh quyết toán thuốc còn nhiều khó khăn, một số tỉnh bước đầu cấp cơ số thuốc sốt rét cho y tế thôn bản để tăng cường điều trị và quản lý bệnh nhân; tuy nhiên do năng lực của nhân viên y tế thôn bản còn hạn chế nên chưa thể triển khai rộng rãi. Viện đã tổ chức Hội thảo chẩn đoán, điều trị sốt rét tuyến tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên với sự tham gia của các Viện, Trung tâm PCSR/YTDP, Bệnh viện tỉnh, Bệnh viện Quân y và các chuyên gia điều trị sốt rét đầu ngành của Việt Nam triển khai Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị sốt rét mới ban hành của Bộ Y tế và tìm ra các giải pháp hạn chế tử vong tại các tuyến điều trị. Các tỉnh cũng đã tiến hành tập huấn phác đồ điều trị sốt rét mới theo hướng dẫn của Bộ Y tế cho các tuyến, đồng thời chỉ đạo tuyến cơ sở phát hiện sớm, điều trị kịp thời, phát huy hiệu quả hoạt động của các điểm kính hiển vi, nhằm hạn chế SRAT và TVSR.
Truyền thông giáo dục và xã hội hoá PCSR Công tác truyền thông giáo dục (TTGD) và xã hội hóa phòng chống sốt rét (XHH PCSR) đạt hiệu quả là một trong những yếu tố bền vững củng cố thành quả PCSR, vì vậy công tác này được quan tâm và triển khai rộng ở các địa phương dưới nhiều hình thức như nói chuyện, phát thanh, thảo luận nhóm, truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình, chiếu Video và biểu diễn văn nghệ, phát tranh, tờ rơi, pano truyền thông PCSR, viết bài cho báo đài. Trang tin điện tử (Website) của Viện và các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên qua hơn 2,5 năm khai thác (2005-2007) với gần 2000 bài viết và trên 450.000 lượt người truy cập đã phát huy hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh cũng như chuyển tải các thông tin cần thiết về lĩnh vực phòng chống sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng. Thay đổi phương thức truyền thông giáo dục PCSR như giao lưu trực tuyến truyền hình về phòng chống sốt rét và sán lá gan lớn ở Bình Thuận, Bình Định, Thừa Thiên-Huế; Hội thi phòng chống sốt rét cho cộng đồng các dân tộc thiểu số vùng sâu/vùng xa tại Khánh Vĩnh (Khánh Hòa), Nam Trà My (Quảng Nam) và A Lưới (Thừa Thiên-Huế); truyền thông trực tiếp cho cộng đồng thông qua đội ngũ truyền thông viên được đào tạo cơ bản, lựa chọn các thông điệp truyền thông hiệu quả và sản xuất vật liệu truyền thông (băng hình, băng tiếng, tranh lật, tranh lịch, tờ rơi...) gắn liền với phong tập tục đồng bào địa phương.
Đào tạo và đào tạo lại: Tiếp tục đào tạo 3 lớp Trung học kỹ thuật xét nghiệm tại Viện, đào tạo lại cho 30 học viên là cán bộ mới của Viện; phối hợp với Trường Đại học Y Hà Nội đã hướng dẫn 2 học viên Cao học bảo vệ thành công Luận văn thạc sĩ chuyên ngành ký sinh trùng; tham gia giảng dạy đại học và sau đại học cho các trường Đại học Tây Nguyên, Trường Đại học Y khoa Huế; tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh tại Học Viện Quân y và Viện Công nghệ sinh học. Tham gia đoàn giám sát đào tạo các trường cao đẳng và trung cấp y tế cụm VIII (từ Đà Nẵng đến Phú Yên), Trường Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn được đánh giá cao (> 90%) đạt cấp II so với tiêu chuẩn quy định của Bộ Y tế.Các tỉnh trong khu vực đã tiến hành đào tạo 810 lớp cho 22.361 học viên là cán bộ y tế cơ sở xã, thôn bản, cán bộ điều trị tại bệnh viện, các bộ tuyến tỉnh, xét nghiệm viên các tuyến nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tại địa phương.
Nghiên cứu khoa học: Kết thúc năm 2007, Viện đã tổ chức nghiệm thu thành công 7 đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Bộ và 11 đề tài cơ sở về các lĩnh vực dịch tễ, côn trùng, ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, ký sinh trùng đường ruột, lâm sàng và điều trị sốt rét. Các đề tài có giá trị ứng dụng cao góp phần giải quyết các khó khăn đang gặp phải ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên như biện pháp phòng chống sốt rét cho dân di cư tự do, dân đi rừng/ngủ rẫy dài ngày; kiểm soát sự phục hồi vectơ tại các vùng sốt rét và chỉ định các biện pháp phun tẩm hóa chất phù hợp, đáp ứng của ký sinh trùng sốt rét với các thuốc sốt rét và hiệu quả các phác đồ đang sử dụng trong chương trình phòng chống sốt rét, biện pháp phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở các vùng có nguy cơ nhiễm bệnh cao; khu hệ muỗi Culicinae và khu hệ ngoại ký sinh trong khu vực... Tổ chức sinh hoạt khoa học được 3 lần cho cán bộ chuyên môn và học sinh, cập nhật thông tin có giá trị về các lĩnh vực dịch tễ học, hóa chất diệt côn trùng, chẩn đoán/điều trị sốt rét và sốt rét kháng thuốc, quản lý thuốc sốt rét, các phương pháp chẩn đoán và thuốc điều trị bệnh giun sán... Phát triển labô nghiên cứu kỹ thuật cao và nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản về di truyền sinh học, sinh học phân tử, miễn dịch học, nuôi cấy liên tục KSTSR, siêu âm, điện tim...
Các đề tài và dự án quốc tế: Kết thúc Dự án phòng chống sốt rét cho đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) do Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tài trợ (2005-2007). Dự án đã chia sẻ kinh nghiệm phòng chống sốt rét giữa các nước Tiểu vùng sông Mê Kông, đặc biệt là hiệu quả biện pháp truyền thông giáo dục trong phòng chống sốt rét. Hợp tác chặt chẽ với Uỷ ban Y tế Việt Nam-Hà Lan (MCNV) trong nghiên cứu thí điểm PCSR Khánh Phú (Khánh Hòa), Học Viện Sốt rét Quân đội Australia (AAMI) trong nghiên cứu hiệu lực thuốc điều trị tại Phước Chiến (Ninh Thuận) và Dự án Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét (GF) tại các vùng sốt rét trọng điểm.
Định hướng hoạt động PCSR 2008:
1.Tăng cường chỉ đạo và giám sát các vùng trọng điểm sốt rét, không để sốt rét gia tăng và hạn chế tử vong sốt rét ở các nhóm dân di biến động; dự báo dịch sốt rét kịp thời và nguy cơ sốt rét gia tăng thông qua phần mềm quản lý sốt rét (MMS).
2.Tổ chức Hội nghị giao ban phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và tổng kết 30 năm đào tạo chuyên ngành để triển khai có hiệu quả kế hoạch hoạt động năm 2008 và phát triển đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực.
3.Xây dựng mô hình thí điểm phòng chống các bệnh do vectơ truyền (sốt rét/sốt xuất huyết) về phát hiện, quản lý và điều trị các trường hợp nhiễm bệnh để qua đó rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm soát dịch bệnh cho các tuyến; đặc biệt là Trung tâm Y tế dự phòng tuyến huyện.
4.Nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục, lựa chọn kênh truyền thông phù hợp và có hiệu quả cho từng đối tượng nhằm gia tăng tỷ lệ ngủ màn. Mở rộng đào tạo đa khoa Kỹ thuật viên trung học tại Viện và phối hợp với các trường đại học đào tạo đại học, sau đại học và đào tạo nâng cao năng lực phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng cho các tỉnh trong khu vực.
5.Kiểm tra giám sát chặt chẽ việc sử dụng thuốc, hóa chất, vật tư kinh phí ở các tuyến để đảm bảo nguồn lực đầu tư phòng chống sốt rét có hiệu quả cao.
6.Triển khai các dự án hợp tác quốc tế về phòng chống sốt rét Quỹ toàn cầu (VGF), hợp tác nghiên cứu sốt rét thực địa với Học Viện Sốt rét Quân đội Australia tại Phước Chiến (Ninh Thuận), ủy ban hợp tác y tế Việt Nam-Hà Lan (MCNV) tại Khánh Phú (Khánh Hòa), nghiên cứu sốt rét kháng thuốc do WHO tài trợ tại Gia Lai và Ninh Thuận, Dự án Kiểm soát sốt rét biên giới Việt Nam-Cambodia theo thư mời của Dự án phòng chống bệnh truyền nhiễm Tiểu vùng sông Mê Kông (ADB) tại Đăk Lăk và Gia Lai...
Kết quả phòng chống bệnh giun sán:
Miền Trung-Tây Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi cho các bệnh ký sinh trùng phát triển, nhất là các bệnh giun sán ký sinh ở người. Kết quả điều tra cơ bản về sự phân bố giun sán ở cộng đồng các tỉnh trong khu vực những năm qua của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn cho thấy mức độ nhiễm bệnh cao và đa dạng với tỷ lệ chung là 60%; trong đó giun đũa 35%, giun tóc 10%, giun móc 40%, sán dây 3%, sán lá gan nhỏ 3%, sán lá gan lớn 6%...; đặc biệt vài năm gần đây tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn trở thành điểm nóng trong khu vực với số mắc mới trên 3000 ca năm 2006 và 1862 ca năm 2007. Bệnh giun sán đã để lại những tác hại không nhỏ trong nhân dân như suy dinh dưỡng, làm chậm sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ em, gây thiếu máu và hạn chế khả năng lao động, thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng con người như bệnh ấu trùng sán lợn, sán lá phổi, sán lá gan lớn...
Tuy nhiên hiện nay bệnh giun sán vẫn được coi là “căn bệnh bị lãng quên” do triệu chứng bệnh diễn biến âm thầm, dễ bị che lấp bởi nhiều bệnh cấp tính khác nên không được quan tâm đúng mức và chưa có quy mô phòng chống. Hoạt động phòng chống bệnh giun sán chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thông qua mô hình tẩy giun cho học sinh các trường tiểu học, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thông quachương trình phòng chống bệnh truyền nhiễm, các đề tài cấp Bộ/cấp cơ sở hoặc nguồn kinh phí nhỏ lẻ được cấp hàng năm.
Với điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi cho dịch bệnh phát triển, đồng bào địa phương nhiều tập quán lạc hậu, ý thức vệ sinh phòng bệnh hạn chế, lại thường xuyên đối mặt với bão lụt kéo dài nên miền Trung-Tây Nguyên không chỉ là trọng điểm sốt rét mà còn là trọng điểm của các bệnh ký sinh trùng. Để góp phần hạn chế bệnh dịch,nhiều năm qua Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã nỗ lực tận dụng các nguồn đầu tư hiện có để mở rộng phạm vi xác định sự phân bố, mức độ nhiễm bệnh và củng cố màng lưới chuyên khoa tuyến tỉnh nhằm tạo cơ sở đề xuất với Bộ Y tếtừng bước đưabệnh giun sán ký sinh vào chương trình phòng chống trên quy mô lớn.
Một số hoạt động phòng chống giun sán năm 2007:
Viện đã tổ chức các lớp tập huấn về chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn cho các tuyến tỉnh và huyện thuộc 11 tỉnh trong khu vực theo chương trình phòng chống giun sán quốc gia (tháng 1/2007). Tổ chức 2 lớp tập huấn về chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn cho 6 tỉnh trọng điểm có tỷ lệ nhiễm bệnh cao (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Gia Lai) theo sự hỗ trợ của WHO (tháng 3/2007). Tổ chức 3 lớp tập huấn phòng chống các bệnh giun truyền qua đất cho trẻ em lứa tuổi 2-5 tại một số huyện của 3 tỉnh Quảng Trị, Đà Nẵng, Đăk Lăk (Dự án Tiểu vùng sông Mê Kông). Tổ chức 6 lớp tập huấn phòng chống các bệnh giun truyền qua đất cho học sinh các trường tiểu học thuộc 6 tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk và Đăk Nông (Dự án WHO). Tập huấn2 lớp về chẩn đoán và điều trị các bệnh giun sán cho cán bộ tuyến cơ sở của 2 tỉnh Đăk Nông và Bình Thuận (Chương trình PCGS của Bộ Y tế).
Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan lớn tại 5 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Phú Yên và Đăk Lăk; điều tra tình hình nhiễm sán lá gan nhỏ tại Kon Tum, Gia Lai; điều tra tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở một số trường tiểu học thuộc huyện Vân Canh (Bình Định) sau nhiều năm can thiệp; điều tra KAP học sinh tiểu học theo Dự án phòng chống các bệnh truyền nhiễm ở 3 tỉnh Quảng trị, Đà Nẵng và Đăk Lăk; điều tra tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun chỉ bạch huyết của 1 xã thuộc huyện Ninh Hòa (Khánh Hòa) sau 3 năm điều trị.
Giám sát chương trình tẩy giun tại các trường tiểu học thuộc 6 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Đà nẵng, Thừa Thiên-Huế, Quảng Ngãi và Bình Thuận; giám sát chương trình tẩy giun cho trẻ em từ2-5 tuổi ở 12 huyện thuộc 3 tỉnh Quảng Trị, Đăk Lăk và Đà Nẵng; giám sát chiến dịch điều trị toàn dân loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết tại 3 huyện thuộc 2 tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận. Kiểm tra công tác chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn ở một số bệnh viện huyện và tỉnh tại Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên và Khánh Hòa.
Các hoạt động tập huấn, điều tra và giám sát đã mang lại hiệu quả thiết thực giúp các tuyến tỉnh, huyện chủ động trong phòng chống bệnh giun sán và bổ sung các dữ liệu đánh giá nhằm xây dựng bản đồ phân bố và kế hoạch phòng chống bệnh giun sán ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Kết quả tẩy giun cho học sinh các trường tiểu học: két quả tẩy giun bằng Albendazole cho học sinhcác trường tiểu học ở 12 tỉnh trong khu vực theo chương trình hỗ trợ của WHO đều đạt tỷ lệ cao trên 98% và số cháu có tác dụng phụ sau uống thuốc không đáng kể (0,06-0,11%)
Kết quả phát hiện và điều trị bệnh sán lá gan lớn: Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, số ca SLGL nhiễm mới được phát hiện ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2007 là 1862 ca, trong đó tại Phòng khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn là 672 trường hợp (chiếm 30,1%) và các tỉnh là 1.190 trường hợp(chiếm 63,9%). So với năm 2006 số ca mắc mới được phát hiện thấp hơn, nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao so với cả nước 84,79% (1862/2196). Số bệnh nhân SLGL tập trung cao ở các tỉnh Bình Định (35,96%), Quảng Ngãi (23,86%), Phú Yên (12,68%), Quảng Nam (10,42%), Đà nẵng (9,92%), Khánh Hòa (3,19%), Gia Lai (1,93%) và rải rác ở nhiều tỉnh khác với tỷ lệ dưới 1%.
Đầu năm 2007, WHO đã viện trợ cho Việt Nam 10.000 viên Egaten 250 mg để điều trị bệnh sán lá gan lớn; số thuốc này được Bộ y tế phân bổ trực tiếp cho các tuyến bệnh viện huyện, bệnh viện tỉnh và một số cơ sở y tế chuyên khoa thuộc các vùng có tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn cao trong cả nước. Theo báo cáo của các Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên số ca nhiễm sán lá gan lớn chủ yếu được phát hiện và điều trị tại bệnh viện tuyến tỉnh, còn các bệnh viện tuyến huyện thuốc Egaten hầu như chưa được sử dụng do điều kiện chẩn đoán cận lâm sàng hạn chế (xét nghiệm ELISA, siêu âm và các xét nghiệm chức năng khác) nên chưa thể phát hiện được bệnh nhân nhiễm bệnh. Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã có công văn báo cáo Bộ Y tế và WHO về tình hình sử dụng thuốc Egaten, đồng thời thông báo các đơn vị được cấp thuốc có kế hoạch điều tiết số lượng thuốc tồn để tránh quá hạn sử dụng. Cuối năm 2007, Viện được WHO cấp thêm 6.000 viên Egaten 250 mg để tăng cường điều trị bệnh nhân sán lá gan lớn ở các nơi chưa được cấp thuốc.
Kế hoạch hoạt động năm 2008:
- Tập huấn chẩn đoán, điều trị và thống kê báo cáo tổng hợp bệnh giun sán cho các tuyến thuộc 15 tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Củng cố màng lưới xét nghiệm giun sán và nâng cao năng lực chuyên khoa ký sinh trùng cho cán bộ một số Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP trong khu vực.
- Tiếp tục điều tra tình hình nhiễm sán lá gan lớn tại một số tỉnh có nguy cơ mắc bệnh cao như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Gia Lai. Đánh giá tình hình nhiễm bệnh giun truyền qua đất ở một số trường tiểu học sau hai năm can thiệp điều trị tại 4 tỉnh miền Trung (Quảng Bình, Quảng trị, Thừa Thiên-Huế và TP. Đà Nẵng).
- Nghiên cứu tình hình nhiễm giun móc/mỏở một số vùng của các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk. Đánh giá thực trạng nhiễm sán lá gan nhỏ tại một số điểm của hai tỉnh Bình Định và Phú Yên sau nhiều năm can thiệp. Nghiên cứu xác định vật chủ trung gian truyền bệnh sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis ở xã Thuận Hạnh, huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.
- Giám sát các hoạt động Dự án WHO về phòng chống các bệnh giun truyền qua đất của học sinh tiểu học và loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết. Tiếp tục thực hiện các hoạt động của Dự án Tiểu vùng sông Mê Kông phòng chống các bệnh giun truyền qua đất cho lứa tuổi từ 24-60 tháng tuổi ở 12 huyện thuộc 3 tỉnh Quảng trị, Đà Nẵng và Đăk Lăk.
- Cung cấp thuốc điều trị đặc hiệu SLGL Egaten 250 mg cho các tỉnh có bệnh nhân nhiễm bệnh; giám sát quản lý, sử dụng và điều tiết kịp thời thuốc đến nơi có nhu cầu để tăng hiệu quả sử dụng.
- Hỗ trợ công tác siêu âm, xét nghiệm tại Phòng khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện và hỗ trợ củng cố labô xét nghiệm giun sán của hai tỉnh Gia Lai, Đăk Lăk.